Chào mừng các bạn
»»-((¯`·(¯`vŽ¯)--»*** MasterSpy *** «--(¯`vŽ¯)·`¯))-«« - Sức mạnh của card đồ họa !
ღLONELYღ
  Home
  => Cách tạo một trang web cho riêng mình !
  => Một số địa chỉ trang web hay dành cho bạn, ....cho tôi !
  => 5 bước cơ bản để diệt tận gốc Spyware
  => 10 điều “lính mới” nên biết
  => 10 bước để lập kế hoạch cho nghề nghiệp tương lai của bạn
  => 15 LỜI KHUYÊN HỌC TIẾNG ANH
  => 21 kho lưu dữ liệu miễn phí trên Internet
  => PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ LOGIC VỊ TỪ
  => 50 cuốn sách văn học cần đọc
  => Những bài học từ Adam Khoo
  => Dùng Admodify.net để quản trị và phục hồi Exchange 2003
  => Cuộc đời của Albert Einstein
  => Cảnh giác với hacker và keylogger!
  => Phần mềm miễn phí giúp bảo vệ computer khi online
  => Học thi - cần ăn uống hợp lý
  => Hacker “oánh” mỗi PC chỉ mất 39 giây
  => Xác định nguyên nhân máy tính tự khởi động !
  => Diệt virus Autorun
  => Bấm dây mạng !
  => Bảo vệ mắt khi sử dụng máy tính !
  => Blog ra đời như thế nào?
  => Bài tập Pascal kiểu bản ghi !
  => Hướng dẫn ôn tập lập trình Pascal căn bản !
  => Cách Diệt Virus
  => Cách gỡ bỏ thủ công Symantec Antivirus an toàn (Phần I)
  => Tổng hợp các lệnh ngoài DOS
  => Cài HIREN BOOTCD vào ổ cứng để cứu hộ
  => Cài windows media player 11 ( không cần active window)
  => Cấu hình mạng ADSL cho người dùng tại nhà
  => Thiết Lập Sevice trong windows XP (giúp máy chạy nhanh hơn)
  => Giới Thiệu Centos
  => Chẩn đoán lỗi của màn hình !
  => Chọn DNS truy cập mạng !
  => Kinh nghiệm phòng chống virus, spyware
  => Trắc nghiệm nghiệp vụ kế toán bằng tiếng Anh !
  => Hướng dẫn chụp hình bằng webcam
  => Tổng Hợp Code Dùng Trong Việc Tạo BLOG
  => Công dụng của các dịch vụ trong Windows
  => Sử dụng Popcap game mãi mãi !
  => Cử nhân CNTT không làm CNTT
  => Tìm hiểu DNS.Các bước thiết lập khi mới đăng ký tên miền
  => Làm DNS server online
  => Nội dung định nghĩa về vật chất của Lê Nin
  => Đọc và ... suy nghĩ !
  => Đôi điều về bảo mật hệ thống mạng trong công ty!
  => Khắc phục lỗi 999 Error của Yahoo
  => Chuyển dữ liệu của ổ C từ FAT32 thành NTFS
  => Gỡ password CMOS bằng cách nào?
  => Phần I: Cơ bản về lỗi "màn hình xanh" trong Windows
  => Tổng quan về Group Policy - từ đơn giản đến phức tạp !
  => Gửi nhiều file qua Yahoo Mail
  => Từ XP cài Hacao Linux 2.16 Pro (file ISO) vào đĩa cứng (LiveCD)
  => Chịu thuế và không chịu thuế
  => Hội thảo qua mạng với NetMeeting
  => HOST Free
  => Hướng dẫn download trên megaupload
  => KGB nén File từ 450MB còn 1.43MB rất tiện chia sẻ file trên mạng
  => Khắc phục rớt mạng liên tục
  => Kiến trúc Oracle
  => Thành công trên giảng đường đại học
  => Kỹ thuật Photoshop cơ bản !
  => Kinh nghiệm học tiếng ANH
  => KInh nghiệm học TOÁN CAO CẤP
  => Đôi điều về quá trình làm luận văn (Phần 2)
  => Làm theme cho Blog 360
  => Chia sẻ những điều học được từ cách làm việc theo nhóm
  => Vạch kế hoạch cho tương lai
  => Các Lệnh Cơ Bản trong LINUX
  => Lịch sử các nước ĐẾ QUỐC
  => Lịch sử Việt Nam
  => Links những trang web hay
  => Tạo mail server online bằng IP Động
  => Tự làm giao diện cho Yahoo Mash!
  => Mấy điểm cần tránh
  => Hỏi về IPHONE
  => Máy tính không khởi động từ ổ đĩa cứng!...?
  => MIÊU TẢ SẢN PHẨM MÁY IN hp1320
  => Phá Deep Freeze - Cướp lấy password!!!
  => Những "tuyệt chiêu" chọn mua laptop cũ
  => NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA BÁO CHÍ
  => Tìm hiểu nhân của hệ điều hành Linux
  => Sửa lỗi NTLDR is missing
  => Ổ cứng chóng hỏng vì... điều hòa nhiệt độ
  => Những phím tắt thông dụng trong Photoshop 7.0
  => Phím tắt trong WORDS
  => Bí mật của PHỤ NỮ
  => Hướng dẫn post hình lên mạng, và 1 số website để upload hình
  => Chương trình quản lý số điện thoại !
  => Quản lý các mạng Windows dùng script - Phần 2: Hoàn chỉnh script -
  => Cấu hình cho máy in N2500
  => Xóa nick của mình trong Friend List của người khác
  => Rollback Rx Pro:
  => User và pass của một số router
  => Giải pháp sao lưu trực tuyến miễn phí (Phần cuối)
  => Vài điều về Scanner
  => Chọn hệ điều hành của bạn
  => Làm server online tận dụng đường truyền ADSL
  => Thuật toán - Cấu trúc dữ liệu
  => So sánh Oracle và SQL Server ?
  => Cấu hình các công nghệ bảo vệ mạng Windows XP SP2 trên một máy tính
  => Tổng quan về tiết kiệm điện khi sử dụng máy tính !
  => Phần IV: Xử lý sự cố phần cứng
  => CÁC VẤN ĐỀ VỀ SỨC KHỎE PHỤ NỮ
  => Sử dụng phím tắt với Internet Explorer 7
  => SỰ PHÁT TRIỂN CỦA SINH VẬT
  => Nguồn gốc máng cỏ giáng sinh
  => Sưu tầm câu đố !
  => SVCHOST
  => Phòng chống virus cho mạng máy tính doanh nghiệp: kinh nghiệm thực tế
  => Các lệnh căn bản trong ngôn ngữ html
  => Sức mạnh của card đồ họa !
  => Cách tải Nhạc nét
  => Triết học và tâm sự của các nhà giáo
  => Phát triển chiều cao
  => Tăng tốc toàn bộ máy tính bằng tay
  => Tăng tốc WinXP
  => Chống mất cắp cho laptop với Laptop Alarm
  => Tạo file ghost!
  => Tạo một CSS layout từ một bản thiết kế (Phần 1 đến 8)
  => Tạo nick ảo trong Yahoo Messenger
  => Tết Đoan Ngọ bắt đầu từ giữa trưa
  => Thói quen tốt: Nghĩ vậy mà không phải vậy
  => Thomas Edison & những phát minh vĩ đại -
  => Windows Vista: các thủ thuật nhỏ khi sử dụng
  => Thủ thuật Blog 360
  => Thủ thuật Internet Explorer 7
  => Thủ thuật tăng tốc cho Windows
  => Thủ thuật Visual basic
  => Thủ thuật Yahoo! Messenger
  => Yahoo Messenger
  => Khám phá mạng xã hội Yahoo! Mash
  => Mẹo tìm kiếm
  => Tìm kiếm trong Excel
  => Tóc hợp khuôn mặt
  => Tokyo - Một chuyến đi
  => Mười quy luật then chốt về Bảo mật
  => Tổng hợp tất cả các kỹ thuật vượt tường lửa
  => Trang trí USB
  => Thuật toán - Cấu trúc dữ liệu CRC (Cyclic Redundancy Check)
  => Các Tuyệt kỹ khiến phái nữ phải ngã lòng
  => CÁCH UP ẢNH QUA HOST TẠI DIỄN ĐÀN
  => Quản lý danh sách bạn chat trong Yahoo! Messenger
  => Error Doctor 2007
  => TuneUp Utilities® 2007
  => Bộ gõ tiếng Việt: Unikey
  => Hướng dẫn viết bài
  => Tường lửa mới trong Windows Vista và Windows Server Longhorn
  => Web 2.0 không chỉ là công nghệ
  => Các website hữu ích về du học bậc sau đại học tại Hoa Kỳ
  => Wi-fi và an toàn thông tin
  => Thuật toán - Cấu trúc dữ liệu So khớp chuỗi với các ký tự wildcard
  => Xóa địa chỉ và homepage
  => USB không cho ghi
  => Yêu cầu của Quản trị mạng
  => Cách Add Feed trong Blog 360
  => Cách tạo theme trong suốt
  => Đề cương KT-Chính Trị
  Contact
  Guestbook
  Story
  Kiếm tiền thật dễ dàng

Biển xanh ... cát trắng

 

 

Card đồ họa - Sức mạnh “bộ tứ”

--------------------------------------------------------------------------------

Không dừng lại ở sức mạnh hai nhân, các hãng chip đồ họa đã đưa ra một đẳng cấp mới cho chuẩn video độ nét cao (HD) với sức mạnh bốn nhân (Quad SLI). Giờ đây các nhà phát triển game có thể tự tin cho sáng tạo của mình bay bổng với các game video HD và các game thủ cũng tự tin đương đầu với chúng.

Cùng sẵn sàng với Window Vista, card Asus EN7950GX2 và Gigabyte GV-3D1-7950-RH trình làng lối thiết kế trên nguyên tắc ghép đôi SLI nhưng cách hiện thực lại khá đặc biệt: hai bản mạch card đồ họa được ghép sát vào nhau và cùng đứng chung chân trên một khe PCI-Express x16. Asus EN7950GX2 và Gigabyte GV-3D1-7950-RH được trang bị những vũ khí "tối tân" nhất: hai GPU NVIDIA GeForce 7950GX2, RAM 1GB loại GDDR3, giao tiếp 512 bit, 48 hàng xử lý lệnh. Nhưng để thiết lập được hệ thống với cả hai, bạn nên tham khảo danh sách bo mạch chủ tương thích tại www.nvidia.com/content/geforce_gx2_sbios/us.asp. Giờ đây "nội lực" tiềm tàng đó lại có cơ hội được phát huy khi kết hợp hai card với công nghệ đồ họa kép truyền thống để tạo nên sức mạnh Quad SLI. Công nghệ đồ họa kép sử dụng 4 nhân này mang lại sức mạnh gấp đôi đồ họa kép sử dụng hai nhân: khả năng khử răng cưa lên tới 32xAA và lọc đẳng hướng đạt mức 16xAF.


Asus EN7950GX2

Kết quả thử nghiệm thu được cho thấy sức mạnh Quad SLI của hai card đồ họa EN7950GX2, GV-3D1-7950-RH kẻ tám lạng người nửa cân và có thể "đánh bật" tất cả các game hóc búa nhất ở độ phân giải cao ngất ngưởng 1600x1200 với đầy đủ hiệu ứng. Với game Serious Sam 2, cả hai đều chinh phục mốc 241fps ở độ phân giải 1600x1200, bật tất cả các hiệu ứng. Sức mạnh này cho phép bạn tự tin đóng vai người hùng Sam trong suốt 40 màn chơi hóc búa, tròn mắt, há miệng khi những con trùm "tổ chảng" thình lình xuất hiện ngay trước mặt và cũng không khỏi ngạc nhiên khi nhìn thấy những cung điện cổ xưa trong màn chơi ở khu Trung Quốc, hoặc tòa lâu đài na ná trong khu Disney Land đẹp, hùng vĩ không thua gì ngoài đời. Tiến đến thử nghiệm sức mạnh Quad SLI với các game DirectX 9.0 như Unreal Tournament 2004, Doom 3, FarCry, Halo, Tom Raider, Half-Life 2, Aquamark 3 vẫn không có sự bứt phá, cả hai card đồ họa vẫn bám rất sát nhau. Tốc độ xử lý game Half-Life 2 của EN7950GX2, GV-3D1-7950-RH cùng là 112 fps ở độ phân giải 1600x1200, bật tất cả hiệu ứng; đủ cuốn bạn vào nhịp điệu nhanh, lôi cuốn của game. Bạn cũng phải ngây người kinh ngạc khi xem nội thất bên trong tòa tháp ở màn cuối cùng: không khác khoang tàu vũ trụ với nhiều kết cấu lạ mắt .

Đích đến cuối cùng trong hàng loạt phép thử game chính là Doom 3, đây chính là phép thử phân cấp rất rõ nét sức mạnh của các card đồ họa. Kết quả thu được ở game này là một chứng cứ hùng hồn nhất cho sức mạnh Quad SLI của cả hai card đồ họa. EN7950GX2, GV-3D1-7950-RH cùng chinh phục mốc 80 fps, độ phân giải 1600x1200, chế độ Ultra, bật khử răng cưa. Bạn sẽ phải giật thót mình với những con quái vật xuất hiện bất ngờ trong Doom 3 và tự tin chiến đấu "ngoan cường" với chúng. Điểm số 3DMark 2003 của cả hai cao vọt trên mức 31.000 điểm.

Tạm biệt game tiến đến đồ họa, cả hai card đồ họa vẫn không chịu "nhường nhau". Trong 3ds Max 5.1, EN7950GX2 và GV-3D1-7950-RH cùng đạt tốc độ xử lý 77 fps; đủ giúp các nhà thiết kế đồ họa thể hiện khả năng sáng tạo trong thế giới 3D.


Gigabyte GV-3D1-7950-RH

Tất cả các điểm số thu được trong game và đồ họa là một lời vinh danh đáng tự hào cho sức mạnh Quad SLI của Asus EN7950GX2 và Gigabyte GV-3D1-7950-RH. Tuy vậy đây vẫn chưa phải là kết quả mong đợi trong dự kiến. Tốc độ xử lý của hệ thống Quad SLI ở tất cả các game độ phân giải 1600x1200 (bật tất cả hiệu ứng) chỉ nhỉnh hơn hệ thống card đơn (hai nhân) một ít: lần lượt đạt 112fps trên game Half-Life 2 (card đơn đạt 110fps) và 80fps trên game Doom 3 (card đơn đạt 73fps). So sánh tiếp đến trong khả năng đồ họa, kết quả vẫn không có sự cải thiện khả quan.

Rõ ràng các phép thử nghiệm thường ngày đã không đủ sức "uy hiếp" hệ thống card đồ họa Quad SLI; dù rằng độ phân giải đã được đưa đến mốc 1600x1200. Tiếc là môi trường thử nghiệm hiện tại chưa đủ điều kiện để đẩy đến độ phân giải 2560x1600 (chuẩn extreme HD) để có thể cảm nhận sức mạnh thực sự mà nhà sản xuất công bố. Bên cạnh đó còn là khó khăn từ việc hiện vẫn còn rất ít game hỗ trợ chuẩn extreme HD và giá của màn hình 30" để đạt đến độ phân giải 2560x1600 vẫn còn ngất ngưởng mức ngàn USD.

Hai card cao cấp này hỗ trợ 2 ngõ DVI và cung cấp phụ kiện khá đầy đủ, phong phú. Nếu như kèm theo Asus EN7950GX2 là game King Kong "nóng hổi" thì với Gigabyte GV-3D1-7950-RH là game truyền thống Serious Sam 2. Dĩ nhiên, bạn cũng đừng quên, card đồ họa Asus EN7950GX2 hỗ trợ chuẩn HDCP để bạn có thể xem video HD hợp pháp trên đĩa chuẩn Blu-ray, HD-DVD. Ngoài ra, đi kèm theo các card đồ họa của Asus là công nghệ Splendid nâng cao chất lượng hình ảnh và các tiện ích phục vụ game thủ kết nối, giao tiếp, chia sẻ: GameLiveShow, GameReplay, GameFaceLive, On-ScreenDisplay.

Asus EN7950GX2 và Gigabyte GV-3D1-7950-RH thực sự là những sản phẩm đỉnh cao về mặt công nghệ và mang lại diện mạo mới cho lĩnh vực đồ họa máy tính. Thật sự là một điều đáng mừng cho cả giới sản xuất game và giới chơi game, làm đồ họa phân giải cao nhưng đầu tư vào sản phẩm này còn mang một ý nghĩa tương lai: đón chào thế hệ ứng dụng giải trí chuẩn nét cao 2560x1600.

Theo pcworld.com.vn
Friday, January 19, 2007, 4:31:01 PM
Theo kinh nghiệm của tui, nếu xài cho PC, thì nên chọn mua như sau (có sự tương đương tính năng): (xét về độ bền và hiệu năng) :
Main -> ASUS
CPU :
+ for Game -> AMD
+ Thường -> INTEL
VGA : Giagabyte
HDD : Seagate
CD/DVD -> ASUS
Ram : Kingmax
Monitor : Samsung or LG
Các bác cho ý kiến nha !
Friday, January 19, 2007, 4:28:59 PM

Trong Windows XP, lỗi “Dumping Physical Memory” thường xuất hiện khi bạn thực hiện lệnh Shutdown hệ thống, nhưng thay vì máy tính sẽ tắt như bình thường thì nó lại hiện ra “màn hình xanh chết chóc” và sau đó tự khởi động lại.

Nhìn thông báo lỗi thì có vẻ như thanh RAM (bộ nhớ) của máy tính có vấn đề nhưng thực ra có thể không phải là như vậy. Sau đây là một số cách khắc phục lỗi này, trong trường hợp hư hỏng do lỗi phần mềm:

Gỡ bỏ phần mềm vừa được cài đặt:

Những xung đột giữa phần mềm mới cài đặt với các phần mềm cũ hoặc với các thiết lập của hệ thống thường là nguyên nhân xuất hiện lỗi trên. Trước tiên, bạn hãy thử gỡ bỏ phần mềm được cài đặt gần nhất so với thời điểm bắt đầu xuất hiện lỗi Dumping Physical Memory. Sau đó, thử tắt máy xem còn bị lỗi như vậy nữa không. Nếu vẫn còn, bạn hãy tiếp tục các bước sau.

Tăng kích thước cho bộ nhớ ảo:

Bộ nhớ ảo quá nhỏ cũng có thể là nguyên nhân gây ra lỗi trên, bạn hãy tăng kích thước cho nó bằng cách truy cập vào hộp thoại Virtual memory (chuột phải My computerPropertiesAdvanced, trong khung Performance chọn SettingsAdvancedChange). Bạn nên thiết lập hai thông số Initial size và Maximum size bằng nhau để cố định bộ nhớ ảo, kích thước bộ nhớ ảo chỉ nên gấp 1,5 đến 2 lần so với dung lượng RAM hiện hành. Xong bạn nhấn OK ba lần.

Vô hiệu hoá hệ thống tự khởi động lại và memory dump:

Bạn hay truy cập vào hộp thoại Startup and Recovery (chuột phải My computerPropertiesAdvanced, trong khung Startup and Recovery, nhấn chọn Settings). Trong khung Systems failure, bỏ chọn mục Automatically restart. Trong khung Write debugging information, mở menu sổ xuống và chọn None. Xong bạn nhấn OK hai lần để thoát ra ngoài.

Bạn hãy khởi động lại máy nếu hệ thống yêu cầu để các thiết lập có hiệu lực.


---Nguồn: tuoitreonline---
Friday, January 19, 2007, 3:45:33 PM


Hãng sản xuất thiết bị lưu trữ hàng đầu nước Mỹ Seagate vừa giới thiệu ổ cứng Savvio 2,5 inch với tốc độ quay lên đến 10.000 - 15.000 RPM (round per minute) trong khi các sản phẩm Momentus của họ hiện là 7.200 RPM.

Savvio 15K. Ảnh: CNet.
Savvio 15K được Seagate coi là "ổ cứng nhanh nhất thế giới" với khả năng lưu trữ 36 GB hoặc 73 GB trong khi sản phẩm 10.000 RPM có dung lượng 146 GB.

Tuy tốc độ này không phù hợp để trang bị cho máy tính xách tay, phiên bản 15.000 RPM sẽ hoạt động trên máy chủ ProLiant của HP. Seagate cho hay họ đang điều chỉnh giá sản phẩm hợp lý với chế độ bảo hành 5 năm.

"Xu hướng của công nghệ thông tin là giảm kích thước vật lý cho các thành phần cấu tạo trong khi vẫn duy trì tính ổn định, tăng dung lượng và hiệu suất hoạt động cao. Thế hệ ổ cứng 15.000 RPM 2,5 inch đầu tiên của Seagate đã đảm bảo tiêu chí này, đáp ứng được nhu cầu cho các ứng dụng máy chủ", John Rydning, Giám đốc nghiên cứu của tổ chức dữ liệu toàn cầu IDC, nhận xét.
http://www.vnexpress.net/Vietnam/Vi-tinh/S...07/01/3B9F26C6/
(Sưu tầm)
Friday, January 19, 2007, 3:43:55 PM
Ảnh: PC-Shop.Hãng sản xuất bộ nhớ Patriot Memory tại thung lũng Silicon (Mỹ) dự định sẽ tung ra module hiệu suất cực cao Extreme Performance PC2-10100 tại triển lãm điện tử tiêu dùng CES diễn ra tuần tới ở Las Vegas (Mỹ).

Extreme Performance có tốc độ 1302 MHz trong khi các module DDR-2 vào khoảng 667 - 800 MHz. Sản phẩm của Patriot mang đến cho hệ thống của người sử dụng, nhất là giới chơi game, khả năng khởi động ứng dụng nhanh chóng.

Tuy nhiên, theo Nam Hyung-Kim, chuyên gia phân tích của hãng nghiên cứu iSuppli (Mỹ), việc tăng tốc độ đồng hồ khó có thể được coi là một bước đột phá trong công nghệ. "Sử dụng một bộ vi xử lý nhanh hoặc một card đồ họa mạnh sẽ hiệu quả hơn chuyện nâng tốc độ RAM", Hyung-Kim khẳng định.

Ngoài ra, bộ nhớ xung nhịp cao thường đắt hơn RAM bình thường. Bên cạnh đó, nó có thể khiến chip sản sinh nhiều nhiệt hơn, như module DHX Dominator 1111 MHz của hãng Corsair (Mỹ) được bán với giá 400 USD nhưng nóng đến mức nó cần được trang bị những bộ tản nhiệt đặc biệt cùng 3 quạt 40 mm.

(Sưu tầm)
Wednesday, January 03, 2007, 9:21:19 AM
Khi mình ShutDown máy thì bị báo lỗi “Application Error : WOWEXEC caused an access violation in ntvdm.exe at 0x0f003802”. Nhờ các bác giải đáp giùm?.
Wednesday, January 03, 2007, 9:20:35 AM
TMáy MP3 hết thời gian bảo hành nên tôi muốn tự làm vệ sinh máy. Có dùng khăn để lau bề mặt màn hình bên trong nhưng vẫn không sạch, có “quện” và vẫn còn bám bụi. Làm sao để màn hình “như mới”?
Wednesday, January 03, 2007, 9:19:16 AM
Tôi có một máy xem phim bỏ túi dung lượng 40GB. Lúc mới mua máy truy xuất xem phim và nghe nhạc khá nhanh nhưng gần đây máy chạy khá chậm, thỉnh thoảng ổ cứng kêu vài tiếng. Hiện tượng này là sao, xử lý thế nào?
Tuesday, December 19, 2006, 11:41:58 AM
Mình khởi động máy nhưng không vào được Win. Chưa kịp hiện chữ Windows lên thì máy đã khởi động lại rồi.Vòng lặp này cứ tiếp tục cho đến khi mình rút nguồn điện.
Có bạn nào biết lỗi này không chỉ cho mình với.

Mình đã gặp trường hợp này trên máy Desktop rùi. Lúc đó mình tháo tung nó ra, rồi lắp vào lại được.
Nhưng bây giờ thì là trên xách tay.....Ai biết thì chỉ dùm tui với
Friday, December 08, 2006, 5:10:01 PM
Sản phẩm mã hiệu 1500 Draft 802.11n của Dell vừa được giới thiệu hôm qua có tốc độ cao gấp 5 lần và tầm phủ sóng rộng gấp đôi so với chuẩn Wi-Fi 802.11g phổ biến hiện nay. Đi kèm theo đó là một phần mềm hỗ trợ mạng chạy nhanh hơn.


Card 802.11n của Dell dài 2 cm. Ảnh: Eweek

Khi được kết nối với một router mạng Draft 802.11n dùng công nghệ Intensi-fi, card này hỗ trợ tốc độ 270 Mb/giây, so với 54 Mb/giây của công nghệ 802.11g. Sản phẩm cũng tương thích ngược với các chuẩn 802.11a, 802.11b và 802.11g.

Với hai băng tần tạo ra phạm vi phủ sóng rộng hơn, công nghệ 802.11n dễ dàng vượt qua những thách thức khi có nhiều người truy cập, chơi game có đồ họa nặng, video độ phân giải cao, truyền tải file dung lượng lớn... Người dùng có cơ hội lướt web khi họ đi vào những vùng thường bị mất sóng với công nghệ cũ.

Thiết bị này có hai băng tần và tương thích với dòng máy laptop XPS và Inspiron của Dell. Phần mềm Dell Network Assistant có chức năng đơn giản hóa việc cài đặt và quản lý mạng không dây và hầu như đã được cài trước vào những sản phẩm máy tính xách tay loại mới nhất mà hãng sản xuất.

Giá của sản phẩm là 59 USD.

(Sưu tầm)
Friday, December 08, 2006, 4:52:04 PM
(Theo PC World Việt Nam-Các bạn tham khảo.)

Ngoài việc cứu hộ bằng Hiren boot CD , mà vẫn còn chưa biết qua đĩa XPE CD kỳ diệu: chạy chỉ đơn thuần trên CD (read only) không cần vào ổ cứng.

Nó làm việc ở môi trường PE 32 bit y hệt như XP, không phải DOS như Hiren nên giao diện đẹp.

Cách đây một năm, XPE hoàn toàn là một đĩa CD chết: câm tiếng, chỉ dùng để cứu hộ máy tính đơn thuần. Đến giờ này, nó đã có thể làm được nhiều việc, như: đánh văn bản tiếng Việt với đủ loại font, nghe nhạc mp3, CD, thu đĩa DVD, camcorder đẹp cực kỳ, thay đổi style, chạy screen saver, nối mạng bằng modem 56KB, nối 2 máy tính, ghi đĩa CDD VD in máy in ngay từ trên đĩa XPE, USB nhận ra ngay ngay khi cắm vào y hệt như trong ổ cứng, còn cả trăm chương trình khác nữa trong đó có Partition magic 805, Acronis selector 10, Opera90 , Pocomail40, Winamp 5.24., Acrobat Reader 708, Norton Ghost 83, 90,10....

Có đĩa XPE ngoài chuyện relax như xem DVD hết ý , bạn sẽ cứu hộ máy tính dễ dàng khi gặp trục trặc qua dùng Ghost 32 bit qua cổng USB, nhanh như chớp chỉ sau 2 - 3 giây là máy tính bạn bình thường y như cũ.

I) Điều đầu tiên, là bạn nên phân biệt đâu là Bart?s PE builder, WinPE và XPE:

1) Windows PE( Windows preinstallation environtment): Đây là đĩa của Microsoft tạo ra một môi trường 32 bit trước khi vào windows, không phải là DOS cổ lổ xấu xí để làm việc và cứu hộ.

Tuy vậy, WinPE hoàn toàn không có bán cho bất cứ cá nhân chỉ cho một số công ty hợp đồng riêng Microsoft mà thôi, bạn khó lòng tìm đâu WinPE trên mạng tải về mà có.

2) Bart?s PE builder: Tác giả Bart, một người Bỉ đã chế ra đĩa Bart?s PE chỉ khác với WinPE bằng tên gọi, nhưng có chức năng trên môi trường 32 bit, khả năng tự boot, đã là qua mặt WinPE với các plug-ins thật dễ dùng, dễ thêm vào để chạy rất nhiều chương trình (đã đến con số gần 500) trên CD.

Chỉ với một điều kiện bạn biết cách tự mình làm ra đĩa ấy thôi sau khi học hỏi qua bài này, tham khảo trên trang web http://www.911cd.net/forums/ (nếu biết thêm tiếng Anh).

Bạn cũng nên biết là Bart PE không phải của Microsoft, nên hoàn toàn không hỗ trợ nhưng bạn vẫn có thể tự do vào trang web nói 911cd.net trên để được giúp đỡ thêm. Nếu không biết tiếng Anh còn thắc mắc hay cần được giúp đỡ bất cứ vấn đề gì; có thể quay số 061-847145 buổi chiều, tôi sẽ giải đáp giúp bạn.

Bart?s PE builder (pebuilder.exe) hay file chánh chạy, để làm ra đĩa CD Bart PE chỉ chạy trên Windows XP/2000 hay 2003 server chứ bạn không chạy được trên WinNT, 98 hay Me.

Mới vài tháng nay, PE đã có phiên bản mới nhất: pebuilder 3110a (thay cho pebuilder 314 cũ) nên bài sau này cập nhật, chỉnh lại theo những gì mới có giúp bạn dễ làm hơn.

3) XPEplugin: Đây là một plug-in chế ra bởi tác giả Gianluigi Tiesi , khả năng thay đổi Bart PE gần giống y hệt với WinXP( XP+PE) = XPE. Đây là một plug-in khó, công phu nhất vì bạn phải tìm quá nhiều file nhưng lại hay nhất : bạn không thể tưởng là bạn đang chạy trên CD vì quá giống với những gì bạn có với WindowsXP trong ổ cứng.

Bạn tải về plug-in XPE 104 phiên bản mới nhất từ trang web http://oss.netfarm.it/winpe/xpe104.cab và nhớ là nó chỉ làm được từ WinXPSP2 chứ không còn dùng SP1 (hoàn toàn không còn tương thích)

II) Chuẩn bị đồ nghề cho việc làm ra đĩa Bart PE đầu tiên:

Muốn làm ra đĩa BartPE thành công, bạn phải sắm các đồ nghề hay phần cứng, mềm hỗ trợ tối thiểu như sau:

1) Phần cứng: ổ ghi CDRW hoặc DVDRW (giờ giá hạ nhiều nên sắm cái này tiện hơn nhiều) và các đĩa CDRW hay DVRW disk (loại tốt) hàng có nhãn hiệu, đừng ham rẻ mua loại không rõ nguồn gốc.

Đĩa CDRWDVDRW tốt như Sony riêng từng hộp dù mắc, cũng nên mua vì tỷ lệ ít hư bậy sẽ rất cao vì chắc bạn phải xoá hàng trăm lần, mới thành công ra được đĩa XPE đầu tiên đấy. Với đĩa CDRW đỏm, bạn chỉ cần xoá sau 3 lần là hết xài phải vứt đi . Không bao giờ để đĩa CDDVD chồng lên nhau hay trong túi nhựa dễ trầy, rất mau hư hết, khó thể ghi lại

Máy tính bạn đang xài WinXPSP2 là tiện nhất; bạn cũng nên có riêng đĩa CD XPSP2 để chép vào một thư mục, đặt tên XPPRO. RAM phải ít ra là 256MB; ổ cứng trống khoảng 10GB; Pentium III hay IV đều được.

2. Phần mềm:

a) Bạn phải có sẵn UltraISO 801 để mở , tạo ra file ISO mới, hoặc chỉnh sữa và save lại những thứ vừa thay đổi lại khi cần.

Bạn cũng nên có thêm Bootwizard 201 tải về từ webpage http://www.wolfgang-brinkmann.de/bcdw/bcdw_e.htm dể kết hợp làm đĩa Bart PE cùng với Hiren 801 hay cả phần cài đặt XP, 2000 để chung trong một đĩa DVD boot đa năng (dành sau này bạn thật giỏi)

c) Phần mềm ghi đĩa file ISO dễ nhất là EasyCD DVD burner 30 hoặc Ashampoo burning studio 6.2 , nhỏ gọn hơn Nero 7028 ; dễ xài dành ghi dạng ISO hơn nhiều.

d) WinImage 8.0 để thay đổi file boot của Hiren, hay bất cứ hình ảnh của đĩa mềm .

Hex Edit 20, WinHEX 13 ít dùng hơn để chỉnh sửa lại file dạng HEX, khi gặp plug-in nào khó , cũng có dịp phải cần đến.

III) Những bước căn bản đầu tiên phải làm để có đĩa Bart PE đầu tiên:

1) Tải về phiên bản phiên bản mới nhất pebuilder3110a.zip 3.23 MB từ trang web của chính tác giả http://nu2.nu/pebuilder/?PHPSESSID=5558989...16b34b10a5c0647. Phiên bản mới này có khá nhiều thay đổi phiên bản cũ trước đây.

Bạn phải tải thêm Sherpya?s Build script.zip 20050322, nhằm tạo một cache cho Bart?sPE.iso XPE và khỏi để dấu ( trước CopyFile, Delfiles, UpdateInis trong các file INF (dùng cài cách này mới thành công) đưa cài driver, soft vào XPE. Tải từ http://sourceforge.net/project/showfiles.p...ckage_id=140771.

Dù có Build script này, bạn vẫn nên check lại các file INF coi có chuyển sang (;CopyFiles ;DelFiles ;UpdateInis) chưa. Như thế mới cài driver vào XPE được.

2) Giải nén file pebuilder3110a .zip vào 1 thư mục nào đó đặt tên CDPE3110a trong ổ E.

Trước khi bung Build script của Sherpya ra, bạn nên thay ngay tên file mkisofs.exe (của Sherpya)thành ra memkisofs.exe

Trong ổ đĩa này, bạn cũng nên chép toàn bộ đĩa CDXPSP2 vào thư mục tên XPPRO.

3 ) Qua hình bên trái đây, bạn thấy các thư mục chính CDPE3110a và các file, thư mục chính đầu tiên khi bung cả 2 pebuilder3110.zip và Sherpya?s buildscript.zip chung vào đấy.

4) Bạn thấy không còn 2 file pe2usb.cmd và peusb.txt vì lấy đi do chưa cần xài tới chuyện làm PE bằng USB. Bạn thấy có nhiều thư mục plug-in (quan trọng nhất), drivers (cần khi cài SATA driver), help(khi giỏi tiếng Anh) và source code (mã nguồn không cần)

Bạn không cần để ý nhiều các file thêm Build script vào BartPE, như là wrapper.cmd, filecase.ini, sort.txt, Infcachebuild.exe.

Bung và tạo thêm memkisofs.exe xong, sau này bạn cứ click đôi vào file pebuilder.exe là nó bắt đầu tự chạy wrapper.cmd để tự làm ra đĩa BartPE bằng một file ISO .

5) Điều đầu tiên là bạn nghiên cứu trước tiên là thư mục plug-in và tìm hiểu sơ qua plug-in quan trọng thế nào ý nghĩa ra sao:

Plugin nhằm giúp bạn có thể đưa hầu hết phần mềm nào, mà bạn muốn chạy trong BartPE, XPE đều được . Nhưng do tôn trọng bản quyền tác giả, bạn phải hiểu là plug-in chỉ giúp đở cho bạn cái sườn với file INF chính của nó, trong plugin hoàn toàn không có một file nào để chạy.

Ngoại trừ plug-in miễn phí (A43 cho bạn sẵn file exe), còn hầu hết plug-in khác bạn phải tự tìm các file bổ sung vào plug-in để cho plugin mới hoạt động trong Bart PE được .

6) Nếu bạn mở thư mục plug-in ra, sẽ thấy có rất nhiều plug-in, có đến hàng chục cái. Nếu chưa quen làm, bạn chỉ nên chọn vài cái tối thiểu để làm trước tiên, coi liệu thành công chưa. Khi nào thật quen dần với các plug-in mới chọn tiếp cái khác phức tạp hơn.

Do vậy, bạn chỉ giữ lại vài plug-in tập làm ra đầu tiên là: zcustom, autorun, BartPE, ghost8, irfanview , nu2menu, ramdisk. Các plug-in còn lại, bạn nên di chuyển chúng vào một thư mục để dành (save) nào đó, khi nào cần đến lấy ra, tìm file bổ sung cho nó để hoạt động sau này.

7) Nghiên cứu sơ về plug-in căn bản là Irfanview và một vài plug-in đơn giản;

a) Irfanview:

Mở plug-in thật đơn giản này ra, bạn thấy chỉ có 3 file là Irfanview.inf, Irfanview.htm, Irfanview.exe .

* File Irfanview.inf quan trọng nhất, trong bất cứ plug-in, giúp cho bạn biết phải bổ sung file nào giúp nó chạy được trong BartPE.

Cứ mở file Irfanview.inf bằng notepad, bạn sẽ thấy hình như bên trên :

- Bạn nên thay trong Mục [Pebuilder] từ enable =0 thành 1 là nó sẽ xài được .

- Trong mục [Sourcediskfiles], bạn thấy 2 dòng FilesI_view32.exe=a,,1và Files I_view32.hlp=a,,1, có nghĩa bạn cần tạo thêm một thư mục files ngay trong plug-in này và bỏ vào đấy 2 files chính I_view32.exe và I_view.hlp (lấy từ việc cài Irfanview398 trong ổ cứng của bạn).

- Dòng a,,1 có nghĩa là nó sẽ chép 2 file này giúp bạn vào thư mục Irfanview trong BartPE.

- Mục [WinNTdirectories] có a="Programs Irfanview",2 có nghĩa là nó sẽ tạo ra thư mục Irfanview.

- Mục [Append] nó sẽ thêm vào trong menu chung của nu2menu.xml, một dòng lệnh lấy từ irfanview_nu2menu.xml.

* File h™ để bạn hiểu thêm cần tải file chính về từ đâu Infanview download page.

* File Irfanview_nu2menu.xml để giúp tạo ra menu sẵn chọn Irfanview chạy trong BartPE

b)Plugin BartPE: bạn cũng mở file chính là bartpe.inf bằng notepad, thấy hình sau đây:

Nhìn vào mục [SourcediskFiles] để biết file nào cần bổ sung và so sánh với các file có sẵn trong plug-in này bạn thấy thiếu 3 file netplwiz.dll=2,. Srvsvc.dll=2, hnetcfg.dll=2 .

Bạn phải tìm 3 file này trong thư mục system32 của WindowsXP ổ cứng chép vào plug-in này, thế là xong. Con số 2 có nghĩa, là nó sẽ chép vào thư mục System32 của i386 (BartPE)

c) Plugin của ghost8: Bạn cũng mở file chính ghost.inf như hình dưới:

Cứ tìm trong[SourcediskFiles], là biết rõ các file nào cần chép từ việc cài Ghost8 hay 2003 trong ổ cứng. Đó là 5 files sau đây: ghost32.exe, ghostexp32.exe, ghostsrv.exe (không cần nếu không xài mạng LAN), ghostcdr.dll, oleaccrc.dll. Phần [Software. AddReg] để thêm registry nhằm giúp bạn có icon đễ dùng hơn với các file có đuôi gho.

d) Plugin ramdisk: rất quan trọng để đặt Ram disk làm môi trường lưu file tạm, trong khi bạn làm việc chạy trên CD (read only).

Bạn nên thay đổi lại một tí trong ramdisk.inf: Ramdisk letter"B:" đổi thành "Z:" và ramdisksize "0x8000000" hay 128MB nếu máy bạn từ 256MB trở lên.

Nếu có RAM máy tính thấp, nên thiết lập ở 64MB cho XPE chạy, bằng ramdisksize "0x4000000" .

e) Plugin zcustom: thiết lập thông tin cá nhân, nơi lưn trữ file tạm của ramdisk và có thể thêm một vài chương trình nhỏ, font VN hay registry vào đây theo ý bạn:

Dấu z là giúp cho thư mục này được nằm sau cùng các plug-in khác.

Dưới dòng cuối của [Setvalue], bạn thêm vào để dịnh ổ (Z:TEMP) là nơi lưu trữ file tạm

[Default.AddReg]

0x1, "Environment", "TEMP", "Z:TEMP"

0x1, "Environment", "TMP", "Z:TMP"

Tiếp sau dòng này, bạn thêm vào [Sourcediskfiles] có 2 file của UnikeyNT 40 (UnikeyNT.exe và ukhook40 .dll) ứsẽ chép vào system32 ; cùng một mẫu font VNI (VTIMESN.TTF=22) kèm dòng[ Software.Addreg] để font đó đăng ký chính thức trong Windows (BartPE).

[Software.AddReg]

0x1,"MicrosoftWindows NTCurrentVersionFonts","VNI-Times N(TrueType)","VTIMESN.TTF"

Bạn cũng có thể thêm nhiều font VNI nữa theo cùng kiễu mẫu với VNI-Times nếu muốn đánh tiếng Việt trong XPE

f) Plugin hwpnp: bạn nên tải về từ website của Paraglider http://www.paraglidernc.com/hwnpp.cab. Bung file cab này ra , tìm ra file hwpnp.inf sửa lại giúp cho nó cài ngay trong system32 I386; thay vì có thư mục riêng như lúc đầu là : Files=a.

[SourceDisksFolders]

Files=a đổi sang

[SourceDisksFiles]

hwpnp.exe=2,,1

hwpnpdll.dll=2,,1

Plugin này rất quan trọng nếu bạn dự định dùng XPE vì nó giúp cập nhật lại driver mọi phần cứng của máy tính người khác khi bạn dùng CD XPE của bạn để cứu hộ máy tính người này.

g) Plugin Nu2menu: còn quan trọng khi bạn mới biết xài BartPE, nhưng kém quan trọng hơn khi chuyển qua dùng chính thức XPE bổ sung cho BartPE do còn thiếu nhiều chức năng: chưa hoàn toàn giống như XP .

Nói cho bạn dễ hiểu, là plug-in này có nhiệm vụ thiết lập một menu căn bản với các thư mục chính với các Programs, Accessories, System Tools được bổ sung sau đó khi bạn cài thêm bất cứ một plug-in nào khác như Ghost, Irfanview để bạn cứ việc click vào một program bổ sung plug-in là chạy thôi... Chức năng phụ, là còn có thể diều khiển độ phân giải màn hình theo ý muốn.

h) Có nên triển khai qua làm các plug-in khác, khi bạn đã hiểu sơ về plug-in của BartPE? Điều này bạn sẽ làm sau này sau khi làm thử nghiệm bước đầu coi có làm ra thành công file ISO cho pebuilder 3110a này không, với một vài plug-in đơn giản nói trên.

IV) Bắt đầu chạy Pebuilder.exe làm ra file.ISO trước khi ghi ra đĩa BartPE tự boot:

Nhớ là bạn chỉ chạy file chủ yếu này sau khi chuẩn bị từng plug-in một, cho có đầy đủ các file exe, dll theo đòi hỏi của file INF của riêng từng plug-in.

1) Khởi đầu chạy pebuilder.exe, nó hiện ra cửa sổ báo đây là phiên bản 3110a như hình bên trái , từ trên xuống có các mục :

- Source path: F:XPPRO (thư mục đã chép CD có XPSP2 tích hợp như đã nói từ lúc đầu)

- Ouput: BartPE (không thay đổi)

- Media output: nên đánh dấu vào nút kiểm Create ISO image (enter file name)

Sau đó ở dòng dưới, bạn có thể thay đổi tên file thư mục để ở đâu theo ý bạn.

- Mục cuối 2 nút kiểm Burn to Cd hay EraseCDRW chưa cần dùng, để trống.

2) Trước khi ấn vào Build bạn phải ấn vào Plugins góc trái, mở ra thêm cửa sổ hình phải giúp bạn kiểm ra lại các plug-in đã chuẩn bị có thiếu cái nào không: tất cả phải là yes, nếu là no: Phải coi chừng Enable trong phần [PEBuilder] ghi nhầm =0 thay vì phải là số 1.

Nếu thấy plug-in nào mà bạn đã làm đủ file không hiện ra, coi lại có sai ở điểm nào không, cả dấu phẩy cũng phải thật đúng khoảng cách như ; bartpe.inf nếu bạn ghi quá gần nhau là ;bartpe.inf (không được) hay [Sourcediskfiles] phải có ngoặc 2 bên là ghi thiếu 1 bên là SourcediskFiles] cũng không được.

Trong cửa sổ plug- ing này bạn có thể chọn enable/ disable khi thấy cần, config (cấu hình) refresh (cập nhật), edit (chỉnh sửa kiểm tra file INF của từng plug-in), add (thêm), remove (bỏ plug-in ấy đi), help (trợ giúp).

3) Sau khi kiểm ra xong các plug-in, ấn vào close (đóng) xem plugin; ra ngoài ấn build nó bắt đầu làm ra file ISO khá nhanh từ 5-7 phút là xong.

Bạn dùng bất cứ chương trình ghi ISO ghi ra đĩa CD BartPE tự boot . Phải chọn lại trong BIOS setup máy tính First boot device là CDROM (thay vì Floppy Disk)

4) Trong trường hợp bạn bổ sung lại thiếu đi 1 file nào đó trong file INF đã yêu cầu, hoặc điều tên file sai, Pebuilder sau cùng sẽ báo có bao nhiêu lỗi (error) ở trên cùng và không làm ra được file pebuilder.ISO giúp bạn .

Bạn phải ấn tiếp ngày 1 trong 2 nút (đi qua phải hay qua trái) coi cái sai này nằm ở plugin nào, và bạn exit thoát ra; xoá ngay thư mục BartPE (đã hiếu file đi) và bổ sung file và làm ra một pebuilder mới lần nữa..

5) Bạn phải thấy có hoạt động của Build scriptr trước khi hoàn tất việc làm ra ISO, nhằm tạo ra INF cache1, làm boot nhanh hơn sửa file INF (cho thêm các dấu phẩy ; vào CopyFiles, DelFiles) mới cập nhật driver phần cứng thành công trong đĩa XPE..

V) Thành công làm BartPE.ISO, nhưng giờ đây phải làm sao làm ra đĩa XPE tuyệt diệu?

Nếu bạn mơí làm ra Bartpe.ISO mới là nữa chặng đường vì BartPE ngoài giao diện xấu, thiếu nhiều chức năng , bạn phải gắng thêm tí nữa là làm ra đĩa XPE

XPE tuy chỉ là 1 plugin của BartPE, nhưng điểm đặc biệt nhất làm vô cùng khó và bạn thật là kiên nhẫn tìm ra đủ các file đòi hỏi cho 10 file INF của nó (có đến hàng 500 files mà bạn phải tìm ra). Đa số các file này, bạn có thể tìm ra trong system32 Windows (XP), hoặc bung file driver.cab và sp2.cab. Nhưng cũng có lúc, bạn phải tìm trong file nén thư mục i386của XPPRO, bung ra từng file bằng dòng lệnh chung sau: expand -r F:TEMPADSLDPC.DL_ F:TEMPADSLDPC.DLL:
(expand -r Thư mục tạm File nén Thư mục tạm File nguyên dạng).

Ngoài ra bạn còn phải tìm trên mạng, cứ đánh tên file nào cần tìm trong Google search hay hiếm hơn nữa là phải tìm một vài file trong đĩa CD 2003 server. Trung bình phải mất từ 3-10 ngày, bạn mới tìm ra đủ file, liệu bạn có thật kiên nhẫn để cuối cùng có đĩa XPE tuyệt vời này không?

1) Đầu tiên là bạn phải biết sơ qua tên các file INF của plug-in XPE này: đó là các file xpe.inf, xpe-defaults.inf, xpe-pnp.inf, xpe-directx.inf, xpe-wmp.inf, xpe-helpsys.inf, xpe-crypto.inf, xpe-mmc.inf.

Riêng có 2 file xpe-mmi.inf (khó tìm file nhất không cần thiết nên bỏ qua) và z_xpe- custom.inf (nên nhập chung vào xpe-defaut.inf).

Bạn bắt đầu mở từng file INF trong đó xpe.inf trước tiên nghiên cứu: bạn thấy có rất nhiều file trong [Sourcediskfiles]; bạn cứ tìm từng file một trong system32Windows, chép từng file ấy vào plug-in chung của XPE. Những file nào khó tìm quá tránh bị lỗi sau này làm ra ISO, bạn có thể đánh dấu ( ; ) trước file ấy nhưng vẫn phải gắng tìm sau này.

Riêng các file có sẵn dấu ( ; ) bạn chỉ bỏ dấu ( ; ) để cài file ấy theo nhu cầu nhưng không có không sao cả.

Phần Registry trong từng file INF, tuyệt đối bạn không nên đụng đến nếu bạn chưa rành cách sửa lại theo nhu cầu. Bạn có nhiệm vụ chủ yếu tìm sao cho ra đủ các file bổ sung cho XPE mà thôi.

2) File xpe-defaults.inf phải sữa lại theo nhu cầu. Bạn mở bằng notepad, chỉnh lại các dòng sau:

; Swap file (có bỏ 1 dòng)

0x7,"ControlSet001ControlSession ManagerMemory Management","PagingFiles","C:pagefile.sys 512 512"

Nên chọn task bar nằm ở dưới đáy màn hình dễ dùng hơn.

; TaskBar on Bottom - No Autohide

0x3,"SoftwareMicrosoftWindowsCurrentVersionExplorerStuckRects2","Settings", 28,00,00,00,ff,ff,ff,ff,02,00,00,00,03,00,00,00,3f,00,00,00,1e,00,00,00,fe,
ff,ff,ff,e4,02,00,00,02,04,00,00,02,03,00,00

3) xpe-pnp.inf: bạn nên chỉnh lại 1 tí như sau cho hwpnp plug-in chạy lúc khởi động để phần cập nhật hầu hết driver phần cứng máy tính;

Dòng này nằm sau phần Enable some sound events

[Software.AddReg]

0x1,"MicrosoftWindowsCurrentVersionRunOnceEx900","144","||xpeinit.exe -m ""HwPnp - Install Driver "" HWPnp.exe +all =@USB =@HDC =PCIVEN"

4) Trong file xpe-mmc.inf, bạn nên bỏ dấu( trước các dòng mới hiện ra icons trong Administrative tools, đó là:

; MMC - Required

;0x1,"MicrosoftWindowsCurrentVersionRunOnceEx550","100","devmgr.dll|DllRegisterServer"

;0x1,"MicrosoftWindowsCurrentVersionRunOnceEx550","101","dfrgsnap.dll|DllRegisterServer"

;0x1,"MicrosoftWindowsCurrentVersionRunOnceEx550","102","mycomput.dll|DllRegisterServer"

5) Trong xpe-directx.inf, bạn nên bổ sung file này bằng dòng ddraw.dll=2: trong [Sourcediskfiles] để tránh dxdiagn.exe báo lỗi thiếu file . Bạn nên chạy cập nhật Directx90C cho WinXP của banù trước rồi mới dùng các file thật mới này chép vào XPE plug-in theo nhu cầu đòi hỏi phải có của file xpe-directx.inf.

6) File xpe-helpsys.inf: chỉ giúp bạn đọc file cmd, help file chứ help and support hoàn không hoạt động ở start menu nên bạn không tìm đủ xpe-helpsys.inf cũng không sao

7) Trái lại xpe.mmc.inf rất quan trọng để chạy Diskmanagement, System properties, Device manager , Defragmentation nếu thiếu file nào cũng không hoạt động hoàn hảo , bạn phải gắng tìm đủ file cho nó.

8) Riêng file z_xpe-custom.inf bạn chỉ cần lấy một dòng để không giới hạn về limit resource

; Remove resource limit by killing smss.exe and winlogon.exe, courtesy of Pierre Mounir (TheTruth) 0x1,"MicrosoftWindowsCurrentVersionRunOnceExA00","100","||xpeinit.exe -9"

Copy dòng này qua paste vào xpe-defaults.inf là được mà không cần chỉnh sửa hoặc dùng file này làm gì.

9) xpe-wmp.inf: cần thiết để chạy được Windows media player 90 trong XPE nhưng không dùng cho v. 10. Nếu bạn đã cài Windows Media player 10 trong XP phải gỡ bỏ và cài lại WMPlayer 90 lấy đúng các file 90 cho xpe.wmp.inf .

Lưu ý thêm: phiên bản 9 này không chạy được file mpeg hay xem đĩa DVD chỉ có Media classic C 6489 chỉ có 1 file xe 4MB mà lại xem các đĩa DVD được tất.

10) Thành công ra sao khi bạn tìm đủ file cho XPE chạy pebuilder.exe không bị báo lỗi? Bạn sẽ có đĩa CD XPE thật tuyệt làm việc y như ổ cứng: Cắm USB Flash Drive nhận ra ngay nhưng muốn nghe nhạc, xem DVD bạn phải bổ sung cho XPE thêm plug-in AC97 nếu bạn xài sound onboard. Cần có thêm plug-in Creative nếu muốn nghe nhạc XPE với card âm thanh Creative. Modem cũng thế phải có plug-in Dialup và Lucent modem. Muốn đánh tiếng Việt, chỉnh văn bản, bạn nên có thêm Office PE 1.61 i hay Open Office 2. 02 ngoài UnikeyNT.exe 40 .

V) Kết luận: Bạn đọc xong bài này mà làm thành công được bartpe.iso hay XPE.iso đầu tiên ghi ra đĩa tự boot đã là quá giỏi nhưng bạn chắc là phải xoá trên CDRW hay làm đi lại ít ra hàng chục lần mới thành công.

Muốn có được đĩa XPE ở mức sau cùng với đầy đủ mọi chức năng tuyệt vời nhất, bạn còn phải đọc tiếp và tìm hiểu nhiều bài nữa về tìm hiếu sâu về plug-in và tải chúng ở đâu? Nhập xuất registry từ XP vào XPE ra sao ? Âm thanh cho XPE, Modem 56KB cho XPE, máy in và nối mạng nhiều máy qua XPE.

Khi trình độ bạn đã sure mọi thứ làm XPE trên CD , mới bắt qua làm XPE chạy trong đĩa cứng cùng với XP dành để cứu hộ hay chạy trong Flash Drive: chắc chắn còn nhiêù lý thú để bạn khám phá XPE hơn nữa.
Friday, December 08, 2006, 4:50:13 PM
13/9, Microsoft đã giới thiệu một số thiết bị ngoại vi dành cho máy tính để bàn và máy tính xách tay trong đó có những tính năng được dành riêng cho Vista.

3 chiếc bàn phím, 3 con chuột máy tính và 3 webcam được thiết kế dành cho những người yêu thích các thiết bị đa phương tiện. Ngoài ra, với những tính năng được dùng riêng cho hệ điều hành Windows Vista sắp tới và những phiên bản Windows hiện tại.

Wireless Entertainment Desktop 8000 là một chiếc bàn phím chỉ dày 2,54 cm sử dụng công nghệ Bluetooth 2.4 GHz có khả năng kết nối không dây với bất kỳ một chiếc máy tính nào ở khoảng cách tới 9,14 m. Bạn có thể sạc pin cho chiếc bàn phím này.

Được thiết kế để có thể sử dụng với Windows Media Center, chiếc bàn phím này có một phím cho phép bạn truy cập trực tiếp tới những bộ phim hay bản nhạc mà bạn lưu giữ trong máy tính. Ngoài ra, chiếc bàn phím này còn có tính năng phát sáng trong những căn phòng tối. Bộ phận cảm biến có thể “phát hiện” xem người sử dụng có ở gần máy tính hay không, nếu không, nó sẽ tự động chuyển sang chế độ “ngủ đông” để kéo dài thời gian sử dụng pin.

Wireless Entertainment Desktop 8000

Một phím dành riêng cho hệ điều hành Vista dùng để khởi động trình điều khiển video và Gadget - một ứng dụng “nhỏ” tương tự như Widget trong máy Mac OS X của Apple. Những phím khác sẽ giúp bạn truy cập trực tiếp tới các trình nhắn tin nhanh và menu Start.

Chiếc bàn phím Wireless Entertainment Desktop 8000 có giá 249,95 USD kèm theo 3 “chú chuột” không dây.

Wireless Entertainment Desktop 700
cũng là một chiếc bàn phím có các phím Vista như model 8000. Tuy nhiên, chiếc bàn phím này lại không có tính năng phát sáng trong đêm tối và cũng không có pin có thể sạc lại mà thay vào đó là sử dụng 4 AA. Model 7000 được bán với giá 149 USD kèm theo một con chuột không dây.

Cả hai sản phẩm này sẽ xuất hiện trên thị trường vào tháng 02/2007 cùng với con chuột laser không dây Wireless Laser Mouse 8000. Bạn có thể sử dụng chú chuột này trong vòng 90 phút mà không cần phải sạc pin. Wireless Laser 8000 cũng có tính năng “một click” cho phép người sử dụng xem tất cả các ứng dụng và cửa sổ trên desktop cùng một lúc.

Microsoft cũng đã thông báo hãng sẽ cho “xuất xưởng” một phiên bản cập nhật của Wireless Laser Desktop 6000 với những tính năng dành cho Vista. Trong tháng trước, Logitech đã thông báo hãng tích hợp sản phẩm chuột và bàn phím không dây của hãng với những tính năng riêng cho Vista.

Vào ngày thứ 3 vừa qua, 12/9, Microsoft đã “tiết lộ” một con chuột máy tính không dây Bluetooth với các chức năng như định hướng trình slideshow, một con trỏ laser và một chiếc điều khiển từ xa. Wireless Notebook Presenter Mouse 8000 có thể sử dụng từ khoảng cách 9,14 m và có một đèn báo tín hiệu pin. Những phím như chơi (play), dừng (pause), chọn bài kế tiếp (forward), chọn bài trước (back), điều chỉnh âm lượng được đặt phía dưới con chuột. Ngoài ra, chú chuột này cũng có khả năng điều khiển RealPlayer, iTunes và Windows Media Player. Chú chuột này sẽ xuất hiện trên thị trường vào giữa tháng 10.

Wireless Notebook Presenter Mouse 8000

Microsoft cũng có kế hoạch sẽ cho ra đời một phiên bản chuột mới vào tháng 01/2007. Natural Wireless Laser Mouse 6000 sẽ giảm áp lực lên khối xương cổ tay và giúp người sử dụng thoải mái hơn khi xoay cổ tay, tránh mệt mỏi khi làm việc lâu trên máy tính.

Bên cạnh những tính năng đa phương tiện và loại bỏ vấn đề đau cổ tay khi làm việc quá lâu, Microsoft cũng sẽ tích hợp tính năng VoIP. Dòng sản phẩm LifeCam mới sẽ bao gồm một chiếc webcam cho máy tính xách tay, một headset (bộ tai nghe) không dây, và một headset có dây dành cho những cuộc gọi giữa hai máy tính với nhau.

LifeCam NX-6000 - chiếc webcam đầu tiên của Microsoft dành cho notebook

Microsoft nói rằng hãng dự đoán rằng đến năm 2009 sẽ có hơn 30 triệu hộ gia đình tại Mỹ sử dụng VoIP để gọi điện. Hãng sản xuất phần mềm này cũng sẽ giới thiệu một chiếc webcam, đồng thời là một chiếc camera 2 megapixel, trong tháng 11 tới. Chiếc webcam này sẽ có những phím cho phép khởi động nhanh một cửa sổ chat video hoặc đưa hình ảnh trực tiếp tới một tài khoản Microsoft Live Spaces của người sử dụng.
(Sưu tầm)
Friday, November 24, 2006, 7:19:09 PM
Trường hợp nêu ra ở đây là máy cài easy cafe nhưng không đăng nhập được, mất MK, admin không cho vào. Vậy cách xử lý thế  nào
Friday, November 24, 2006, 7:17:58 PM
Ai có cách nào để gỡ bỏ mà không phải cài lại máy không ?

Xin thảo luận ở đây
Friday, November 24, 2006, 4:13:00 PM
Bạn lo lắng rằng việc kiểm tra an ninh tại sân bay có thể khiến cho chiếc laptop của mình phải nằm lại khoang hành lý? Hay sợ rằng máy quét sẽ làm hỏng những dữ liệu quan trọng trong ổ cứng?

Sau đây sẽ là một số lời khuyên dành cho bạn khi gặp phải những trường hợp như vậy.

Cho dù bạn có gói ghém kỹ cỡ nào thì việc kiểm tra các thiết bị điện tử cũng vẫn có thể gây ra những ảnh hưởng không tốt tới các “cục cưng” của bạn.

Như tại các sân bay của Mỹ, Cục Quản lý an ninh vận chuyển liên bang ( The U.S. Transportation Security Administration - TSA) có quyền kiểm tra bất kỳ túi hành lý nào khả nghi, và khi mà các nhân viên của TSA làm việc đó, họ không nhất thiết phải đóng gói lại hành lý cho bạn như trước khi chúng bị bới tung lên.

Ngoài ra, các hậu quả khác mà bạn có thể nhận thấy đó là thất lạc hành lý, ăn trộm hay bị trì hoãn hoàn trả hành lý… trước cả những nguy cơ khủng bố trên bầu trời.

Dưới đây là những gì mà bạn có thể làm để giảm tối đa những ảnh hưởng tới những vật dụng của bạn.

1. Phải chuẩn bị tinh thần cho mọi khả năng

Ông Steve Heiner, một nhiếp ảnh gia lâu năm và hiện là giám đốc kỹ thuật của Nikon, cảnh báo: “Một điều tôi có thể nói đó là khi đóng gói đồ đạc bạn phải luôn nghĩ rằng mình có khả năng sẽ bị kiểm tra vào những phút cuối cùng”. Điều này không chỉ đúng đối với máy ảnh mà còn đối với cả nhiều thiết bị khác. Việc tránh đưa chúng vào những vị trí khó lấy ra sẽ giúp bạn giảm thiểu những va chạm khi phải dỡ đồ để kiểm tra.

2. Nên đóng gói nhiều lớp

Sẽ lý tưởng nhất nếu các thiết bị nhạy cảm của bạn có thể nhét trong một cái túi độn bông và đặt vừa vặn trong vali. Ông Heiner thường mang theo mình một chiếc túi chứa máy ảnh nhỏ để có thể cho vào đó máy iPod và điện thoại di động. Sau đó ông bỏ chiếc túi này vào balô đeo sau lưng, “Thỉnh thoảng có những chiếc vali đã kiểm tra xong và vẫn còn chỗ trống tôi sẽ cho chiếc túi đựng máy ảnh của mình vào đó. Thế là có thêm một lớp chống sốc và tôi không phải lo ngại gì về việc hỏng hóc nữa.”

3. Hãy tách rời pin, sạc và các đồ phụ trợ khác

Chiếc túi chuyên để laptop là một vật không thể thiếu

Khi được để lẫn lộn cùng nhau, những đồ như thế này có thể tạo ra một mớ hỗn độn không thể nào nhận diện trên máy Xquang dù cho chúng ở trong hành lý hay trong những chiếc túi đã được kiểm tra.

Bằng việc tách chúng ra với những chiếc túi biệt lập, bạn có thể dễ dàng lấy những thứ này ra khỏi túi hành lý trước khi đi qua máy an ninh (hiện đã có bán những chiếc túi loại nhẹ có thể gấp gọn rất phù hợp). Khi một thứ nào đó có vấn đề, người kiểm tra chỉ phải mở một chiếc túi nhỏ thay vì dỡ tung hành lý của bạn.

4. Nhớ sạc đầy pin

Tuy rằng bạn nên bỏ riêng pin ra khỏi máy nhưng hãy nhớ sạc cho bộ pin của bạn đầy điện để nếu nhân viên an ninh yêu cầu bật máy lên kiểm tra bạn không phải chờ cho tới khi sạc xong pin. Có thể khi kiểm tra xong máy bay của bạn đã bay mất rồi thì sao? Vì vậy hãy chắc rằng bạn có một bộ pin đầy hay chí ít cũng là một adapter cắm điện trực tiếp.

5. Đồ dễ vỡ nên để ở giữa vali

Với các thiết bị tốt nhất là để ở giữa vali và được bao quanh bằng quần áo để tránh cho chúng bị dịch chuyển. Đừng sử dụng các loại túi mềm mà hãy sử dụng những chiếc vali “cứng cáp”, chúng sẽ bảo vệ thiết bị của bạn tốt hơn.

Nếu bạn có nhiều thiết bị thì hãy để sao cho chúng không thể tự va đập vào nhau được và nhớ là phải quấn riêng từng thứ một. 

6. Sử dụng túi đựng chính hãng

Nếu bạn sở hữu một chiếc máy ảnh kỹ thuật số với ống kính quang học hay chỉ là loại “ngắm và chụp” thì tốt hơn cả vẫn là sử dụng túi đựng chuyên dụng dành cho chúng. Những chiếc túi này có cả chỗ để pin, pin dự phòng, ngăn để ống kính… và quan trọng nhất là chúng vừa khít với máy ảnh của bạn.

Nếu như sử dụng túi của một hãng thứ ba và nó hơi rộng so với thiết bị, cách đơn giản nhất là hãy quấn thiết bị lại bằng một đôi tất hay một chiếc khăn sao cho vừa với ngăn đựng.

7. Với laptop thì sao?

Trước khi mang chiếc máy tính xách tay của bạn lên đường, đừng quên một công việc vô cùng cần thiết đó là phải sao lưu toàn bộ dữ liệu quan trọng và để chúng ở nhà.

Còn với những dữ liệu bạn góp nhặt được trong chuyến công tác hay những bức ảnh chụp khi đi du lịch thì hãy copy một bản vào những chiếc đĩa quang, bộ nhớ flash hay sử dụng các dịch vụ sao lưu dữ liệu trực tuyến để tránh rủi ro.

Ngoài ra, hãy nhớ rằng bạn phải thực sự tắt máy khi không dùng đến, tháo pin ra khỏi máy và cất chúng ở một vị trí an toàn (Đặc biệt tránh để máy ở chế độ stanby hay hibernate).

8. Nên làm gì với điện thoại di động?

Cũng như với MTXT, trước khi đi bạn nên chuyển những số liên lạc trong máy sang SIM và sử dụng các phần mềm để tạo ra một bản sao lưu của SIM (hiện tại trên mạng có rất nhiều phần mềm dạng này). Ngoài ra, một số công ty cũng đã có dịch vụ sao lưu phonebook rất tiện lợi như của VDC chẳng hạn.

Phải nhớ rằng các máy điện thoại di động buộc phải tắt sóng khi ở trên máy bay, vì vậy trừ phi ĐTDD của bạn có chức năng Flightmode còn không thì hãy tắt đi, tháo pin, SIM và cho vào một ngăn của túi hành lý.

Không ngạc nhiên khi các nhà sản xuất ĐTDD như Nokia lại khuyên rằng tốt nhất những chiếc điện thoại nên tận hưởng cuộc hành trình trong khoang chứa đồ. 

9. Ổ cứng thì thế nào?

Một chiếc hộp đơn giản như thế này sẽ giúp bạn rất nhiều

Khi bạn mua một chiếc ổ cứng, dù nó là loại cắm trong hay cắm ngoài, loại ổ tí hon 1 inch hay kể cả những ổ cứng dành cho MTXT, hãy luôn ghi nhớ rằng bạn phải chọn loại ổ nào có thiết kế chống sốc thật tốt.

Ví dụ như loại ổ của Seagate với công nghệ tách rời đầu đọc ra khỏi mặt đĩa, giúp giảm thiểu những hư hại do va đập gây ra. Công ty cho biết loại ổ này có thể chịu được tác động khi rơi từ độ cao 3 foot xuống nền bêtông.

Tuy nhiên, tốt nhất vẫn là để riêng những chiếc ổ cứng cách xa khỏi các bề mặt cứng như cạnh của vali và nhớ quấn chúng lại trong những túi chống tĩnh điện cùng một lớp khăn ở ngoài.

Nếu ổ cứng của bạn sau chuyến đi dài bỗng “dở chứng” không chịu làm việc thì đừng vội hoảng hốt. Hầu hết các dữ liệu đều có thể phục hồi lại - đương nhiên là có giá của nó. Phục hồi lại các dữ liệu này là hoàn toàn có thể, bởi thường các tác động gây ra trong chuyến đi chỉ là các tác động về mặt cơ học.

10. Một số gợi ý khác

Khi đi du lịch hay đi công tác, bạn có thể mua bảo hiểm cho hành lý của mình. Các loại bảo hiểm này thường có ở một số các công ty du lịch hay các hãng hàng không.

Ngoài ra bạn có thể lựa chọn việc đặt dịch vụ chuyển hành lý của mình sang nơi cần đến trước khi bạn tới nơi. Tuy nhiên việc này chỉ có thể thực hiện khi bạn đi từ nước ngoài về Việt Nam. Hiện tại, trong nước vẫn chưa có các công ty cung cấp dịch vụ trên.

Và sau cùng, một điều bạn nên thực hiện trước khi làm tất cả những gì mà tôi đã khuyên trong bài viết này: “Hãy liên hệ trực tiếp với hãng hàng không để có được thông tin chi tiết về các hàng hóa được phép mang lên máy bay cũng như các điều kiện vận chuyển của chúng”. Chúc bạn có một chuyến đi vui vẻ và an toàn!!!
(Sưu tầm)
Friday, November 24, 2006, 4:11:08 PM
Tủ lạnh, máy giặt và nhiều thiết bị điện tử gia dụng khác không phải là cỗ máy "ngốn điện" duy nhất trong gia đình bạn. Máy tính và các thiết bị ngoại vi đi kèm cũng góp phần đáng kể trong hóa đơn tiền điện cao ngất hàng tháng. Trên thực tế, một máy tính (và màn hình) có thể tiêu tốn lượng điện năng xấp xỉ một chiếc tủ lạnh và đây có thể xem là lý do cần thiết để xem xét những giải pháp tiết kiệm điện cho máy tính.

THEO DÕI ĐIỆN NĂNG TIÊU THỤ

Một máy tính thông thường loại 150 watt sẽ tiêu thụ 876 kWh điện mỗi năm. Tại Việt Nam, nếu ước tính giá điện trung bình khoảng 1.000 đồng/kWh, có nghĩa là bạn phải chi 876.000 đồng/năm cho máy tính đó.

Ở chế độ chờ (standby), máy tính cũng tiêu tốn một lượng điện năng xấp xỉ như khi đang được sử dụng. Bằng cách tắt máy tính và các ngoại vi khi không còn sử dụng, đồng thời khai thác biện pháp quản lý điện năng khi mở máy, bạn có thể cắt giảm đáng kể chi phí. Nếu sử dụng máy tính 6 giờ mỗi ngày, bạn sẽ tiết kiệm được 75% tiền điện hoặc cao hơn. Thậm chí khi máy tính đang sử dụng là máy chủ, bạn cũng có thể tiết kiệm điện bằng cách tắt màn hình.

Máy in laser và máy fax cũng không là ngoại lệ. Máy in laser đa chức năng và máy fax tiêu thụ đến 300 watt khi in, 85 watt ở chế độ chờ và 10 watt khi chạy không tải (idle). Để giảm chi phí sử dụng điện, bạn nên nối tất cả thiết bị ngoại vi vào một ổ cắm điện và ngắt điện cấp cho ổ cắm này khi tắt máy tính. Để an toàn, bạn có thể sử dụng một bộ lưu điện (UPS) cho máy tính. Ngoài ra, bằng cách tắt modem và router băng rộng khi không sử dụng sẽ giúp mạng nội bộ của bạn an toàn hơn. Một số ổ cắm điện có tính năng định giờ tắt nguồn và bạn cần lưu ý "không được" sử dụng thiết bị loại này cho máy tính, thiết bị lưu trữ gắn ngoài hay bất kỳ thiết bị nào có thể gây mất dữ liệu khi bị tắt điện đột ngột.

Cuối cùng, hãy ngắt điện các bộ sạc dùng cho PDA, máy nghe nhạc, camera số và các thiết bị khác khi không có nhu cầu sử dụng, hoặc dùng một ổ cắm có khả năng định giờ tắt nguồn để ngắt điện khỏi chúng. Tuy nhiên, loại ổ cắm này cũng tiêu thụ đến 5 watt mỗi giờ ngay cả khi bạn không cắm bất kỳ thiết bị nào vào chúng.

CẤU HÌNH MÁY TÍNH

Để thực hiện các cài đặt quản lý điện cho máy tính, với Windows XP hoặc Windows 2000, bạn nhấn phải chuột lên màn hình Windows và chọn Properties -> Screen Saver. Sau đó nhấn nút Power ở bên phải của biểu tượng Energy Star, và chọn nhãn Power Schemes trong hộp thoại Power Options Properties (Hình dưới). Đối với máy tính để bàn, bạn chọn Home/Office Desk ở danh sách thả xuống Power schemes (thường là mặc định). Ở mục Turn off monitorTurn off hardisk, bạn hãy chọn thời gian theo ý mình.
Sử dụng Power Options của Windows để tắt màn hình và đĩa cứng nếu không sử dụng sau thời gian nhất định.
Ngoài ra, tùy chọn StanbyHibernate bên dưới nhãn Power Shemes cũng rất hữu ích trong việc cắt giảm lượng điện năng tiêu thụ trong máy tính.

Để đạt được chuẩn tiết kiệm điện Energy Star, một máy tính phải tiêu thụ điện ít hơn 70% so với máy tính không có tính năng quản lý điện, và sử dụng dưới 15 watt khi hoạt động ở các chế độ không làm việc (inactive) khác. Một màn hình chuẩn Energy Star phải tiêu thụ điện ít hơn 60% so với loại màn hình tiêu chuẩn, và sử dụng từ 2 hoặc 4 watt khi tắt hoặc ở chế độ chờ.

Theo hãng ViewSonic, một màn hình LCD sử dụng khoảng 1/3 công suất điện của màn hình CRT có cùng kích thước. Bạn cũng có thể tiết kiệm điện bằng cách sử dụng máy tính xách tay thay cho máy tính để bàn do máy tính xách tay chỉ sử dụng khoảng 1/4 công suất của máy tính để bàn; cũng như chuyển sang sử dụng máy in phun thay cho máy in laser.
(Sưu tầm)
Friday, November 24, 2006, 4:05:19 PM
Các bạn đã từng đi mua ổ cứng? Các bạn đã quá quen thuộc với ổ cứng. Vậy nhưng ổ cứng là gì và nó hoạt động thế nào, không hẳn nhiều người đã biết. Chúng ta hãy cùng xem xét vấn đề tưởng như quá quen mà vẫn hãy còn lạ trong bài này.

Nếu như CPU là bộ óc của máy tính thì ổ cứng là bộ nhớ lâu dài, nơi lưu trữ cố định các dữ liệu.

Bánh xe và bánh răng! Nếu không có chúng thì cũng chẳng có ô tô hay ổ cứng. Trước khi bánh răng xuất hiện, người ta sử dụng băng từ để lưu trữ dữ liệu, trên các máy lớn mainframe các băng từ này phải quay tít liên tục để xử lý hết được lượng dữ liệu lưu trữ khổng lồ. Một vấn đề rất khó chịu gặp phải ở băng từ là cơ chế đọc ghi tuần tự. Chẳng hạn bạn muốn có dữ liệu ở phần cuối băng, trong khi bạn đang ở đầu băng, phải làm thế nào đây? Sẽ chẳng có cách nào khác là bạn phải đau khổ ngồi chờ cái quãng thời gian tưởng chừng chẳng bao giờ kết thúc để băng từ… quay từ đầu tới phần dữ liệu bạn muốn. Đến lúc đó nhỡ bạn lại cần dữ liệu ở đầu băng thì sao? Không nói nhưng chắc hẳn ai cũng hình dung được gương mặt nhăn nhó khổ sở của bạn lúc ấy!

So với băng từ, đĩa từ nhanh hơn rất nhiều. Cơ chế ghi của đĩa từ cho phép bạn di chuyển đầu đọc (ghi) trực tiếp đến vị trí lưu trữ dữ liệu, cải tiến rõ rệt về thời gian so với việc bạn phải đợi hàng trăm mét băng từ quay tuần tự mãi mới đến phần dữ liệu mong muốn.

Định nghĩa ổ cứng

Ổ cứng là thiết bị lưu trữ có thể đọc ghi dữ liệu nhanh chóng bằng một tập hợp các phân tử từ hoá trên các đĩa quay.

Nếu như CPU là bộ não của máy tính thì ổ cứng là bộ nhớ lâu dài, lưu trữ dữ liệu chương trình và hệ điều hành ngay cả khi máy ở trạng thái nghỉ hoặc tắt. Hầu hết mọi người không thể thấy được phần bên trong của ổ cứng. Bởi nó được phủ bên ngoài bởi một lớp vỏ kim loại (thường là nhôm). Bạn có thể tham khảo cấu tạo của nó tại phần bảng máy PC (mạch in) ở phía cuối.

Bảng PC này cung cấp cho chúng ta những các thành phần đầu não của một ổ cứng như bộ điều khiển thiết bị vào ra (I/O controller), firmware, phần mềm nhúng. Các thành phần này có nhiệm vụ cho phần cứng biết phải làm gì và liên lạc như thế nào với máy tính. Trong bảng bạn cũng sẽ thấy một bộ phận khác là bộ đệm của ổ cứng. Bộ đệm này là phần chứa dữ liệu tạm thời, chờ để được ghi hay gửi vào cho bộ nhớ máy tính. Nhưng tốc độ của ổ cứng hiện đại ngày nay chậm hơn giao diện luồng dữ liệu có khả năng điều khiển.

Nếu bạn có một ổ cứng rời, bạn sẽ thấy mỗi ổ cứng có từ một đến bốn platter (đĩa), mỗi platter có đường kính gần 9cm. Đường kính của các platter dùng trong thiết bị di động sai khác khoảng 2.5 cm so với các platter trong các thiết bị nghe nhạc, khoảng 4.5 cm với các platter ổ cứng pocket và 6.3 cm với các platter dùng trong notebook. Các platter này cũng được biết đến như là các disk được phủ một lớp vật liệu từ tính nhạy cảm trên cả hai mặt và sắp xếp các milimet phân tách thành một spindle (trục quay). Trong ổ cứng còn có một động cơ thay đổi luân phiên giữa spindle và platter. Các đĩa ổ cứng dùng trong notebook có tốc độ 4200, 5400 hoặc 7200 vòng/phút. Các ổ của máy để bàn hiện nay thường ở mức 7200 hoặc 10.000 vòng/phút. Nói chung tốc độ quay càng cao thì việc đọc dữ liệu càng nhanh.

Ghi từ tính

Dữ liệu được đọc và ghi thông qua các dãy bit (đơn vị nhỏ nhất của dữ liệu số). Một bit chỉ có hai trạng thái 0, 1 hay bật/tắt. Các bit này được thể hiện theo chiều dọc phân tử trên bề mặt một platter, trong lớp phủ từ tính. Chúng được thay đổi (ghi) hoặc nhận ra (đọc) bằng phần từ tính trên đầu đọc (ghi). Dữ liệu không chỉ được lưu trên ổ cứng dưới dạng thô mà đầu tiên nó được xử lý với các công thức toán học tổng hợp. Chương trình cơ sở trong ổ sẽ bổ sung thêm các bit mở rộng vào dữ liệu, cho phép ổ tìm và chỉnh sửa các lỗi ngẫu nhiên.
Trong các ổ mới hiện nay, người ta thay thế cơ chế ghi từ tính theo chiều dọc bằng một quá trình gọi là perpendicular magnetic recording (ghi từ tính trực giao). Trong kiểu ghi này các phần tử được sắp xếp vuông góc với bề mặt platter. Do đó chúng có thể được gói gần nhau hơn với mật độ lớn, lưu trữ được nhiều dữ liệu hơn. Mật độ bit trong mỗi inch dày hơn có nghĩa là thông lượng của các dòng dữ liệu dưới đầu đọc (ghi) sẽ nhanh hơn.

Nguồn: Helpwithpcs

Thông tin được ghi và đọc từ cả hai mặt của đĩa, sử dụng cơ chế mounted on arms, di chuyển cơ học qua lại giữa phần trung tâm và rìa ngoài đĩa. Quá trình di chuyển này được gọi là “seeking” (tìm kiếm) và tốc độ di chuyển qua lại được gọi là “seek time” (thời gian tìm kiếm). Các thông tin đầu đọc (ghi) tìm kiếm nằm trên các track (rãnh), là những đường tròn dữ liệu đồng tâm trên ổ. Các track được chia thành nhiều đơn vị logic gọi là sector (cung từ). Mỗi một sector có địa chỉ riêng (số track cộng với số sector), được dùng để tổ chức và định vị dữ liệu.

Nếu ổ đọc (ghi) không đến được track cần tìm, bạn sẽ phải trải qua cái gọi là góc trễ (latency) hay độ trễ quay (rotational delay) hầu hết đều ở mức trung bình. Độ trễ này xuất hiện trước khi một sector quay bên dưới đầu đọc(ghi) và sau khi nó tìm thấy track cần tìm. 

Mạch ghép nối là gì?

Thông thường các máy tính sử dụng kết nối PATA (Parallel Advanced Technology Attachment) hoặc SATA (Serial ATA) trong ổ cứng. Thậm chí bạn có thể sử dụng đồng thời cả hai kết nối này vì hầu hết các bo mạch chủ hiện đại bây giờ đều đưa ra cả hai kiểu giao diện. Chúng ta đang ở thời kỳ chuyển giao giữa PATA và SATA nên sắp xếp như vậy rất hợp lý. Giao diện PATA vẫn còn cần thiết trong các kết nối của ổ quang trong (internal optical drive) với máy tính. Sự song song trong PATA nghĩa là dữ liệu được gửi song song xuống các dòng đa dữ liệu. SATA gửi dữ liệu theo kiểu hàng loạt qua lại giữa các cặp dây xoắn đơn.

Ổ PATA (thông thường được gọi là ổ IDE) được phát triển với nhiều tốc độ khác nhau. Mạch ghép nối ATA nguyên bản của những năm 80 hỗ trợ tốc độ truyền tải lớn nhất là 8,3 MB/giây, một tốc độ rất nhanh thời bấy giờ. ATA-2 nâng thông lượng tối đa lên mức 16,6 MB/giây. Lần lượt sau đó là Ultra ATA với các tốc độ 33 MB/giây, 66 MB/giây, 100 MB/giây. Và đến 133 MB/giây của Ultra DMA-33 (Direct Memory Access – Truy cập bộ nhớ trực tiếp) qua Ultra DMA-133 hay Ultra ATA-33 qua Ultra ATA-133. Sau đó đại đa số sử dụng Ultra ATA-66 hoặc hơn.
Cable PATA và SATA (Nguồn: Seagate)
Một ổ ATA điển hình sử dụng cable có độ rộng 2 inch, 40 hoặc 80 (sợi), mặc dù một số cáp 40 chân có dạng vòng. Các ổ của máy để bàn chủ yếu sử dụng bộ kết nối 40 chân, các cáp mở rộng 80 là để phân tách một cách vật lý các sợi dữ liệu nhằm tránh hiện tượng nhiễu xuyên âm ở ATA-100 và ATA-133. Notebook với ổ 2,5 inch sử dụng bộ kết nối 44 chân, ổ 1,8 inch sử dụng bộ kết nối 50 chân.

Với tốc độ 133 MB/giây, mạch ghép nối ATA dần không xử lý được các thách thức về mặt kỹ thuật. Mạch SATA ra đời đã giải quyết các vấn đề của ATA. Hiện tại SATA có hai tốc độ chính: 150MBps và 300MBps và hai phiên bản mới 1,5 gigabit/giây (gbps) SATA và 3 gbps SATA . Nhưng thuật toán của các phiên bản mới này khá mờ nhạt: 3gbps được chia thành 8 (tổng số bit trong một byte) trở thành 375 MBps (không phải là 300MBps). Nguyên nhân do tốc độ gbps là tốc độ tín hiệu; 300MBps là tốc độ truyền tải dữ liệu lớn nhất. Và đến nay tốc độ mạch nối vẫn chưa được nhân đôi thêm lần nữa. Tốc độ truyền tải dữ liệu của ổ đơn SATA thường được duy trì ở mức 150MBps. Nếu sử dụng chế độ RAID, cung cấp dữ liệu từ hai hay nhiều ổ vào đường ống dẫn thì sẽ sử dụng được băng thông lớn hơn từ giao diện 300MBps.

Ổ SATA có cáp gọn và bộ kết nối nhỏ hơn ổ ATA. Điều đó cho phép có nhiều kết nối hơn trong bảng mạch chính và nhiều dòng khí bên trong hộp máy. SATA còn đơn giản hoá phần cài đặt bằng cách sử dụng cấu trúc mạng point-to-point (điểm tới điểm), cho phép sử dụng một kết nối cho mỗi cổng và cáp. Cấu trúc này cải tiến hơn nhiều so với các jumper và kết nối master/slave của ổ PATA, trong cấu trúc của ổ PATA một cáp được dùng để kết nối 2 ổ. Không giống như PATA, SATA phù hợp với các ổ ngoài gắn trực tiếp, cho phép sử dụng cáp dài 2m trong một giao diện, góp phần cải tiến tốc độ hơn nhanh đáng kể so với USB 2.0 và FireWire. External SATA có bộ kết nối hơi khác hơn một chút, tốc độ được cải thiện, được thiết kế để khoá tại một chỗ, nhiều lỗi được sửa chữa và tính tương thích hoàn chỉnh.

Một giao diện kết nối khác khá phổ biến trước đây, nhưng hiện không còn được nói tới nhiều là SCSI (for Small Computer System Interface). Tại thời kỳ phát triển, SCSI là phương tiện lưu trữ chương trình thực thi ổ cứng để bàn khá nhanh. Nhưng SATA đã dần thay thế SCSI.

Ổ cứng trong tương lai

Có thể nói sau này tất cả các ổ cứng để bàn và di động sẽ dùng mạch giao tiếp SATA với cơ chế ghi từ tính trực giao. Bất kỳ máy PC mới nào cũng sẽ có ít nhất một mạch SATA; Bạn có thể nâng cấp ổ của mình thành ổ trực giao khi giá thành hạ. Dung lượng ổ sẽ tiếp tục lớn lên theo cấp hàm mũ trong khi tốc độ thực thi chỉ phát triển ở mức trung bình.
(Sưu tầm)
Thursday, November 23, 2006, 10:59:13 PM
Nếu chỉ nghe nói qua đến virus máy tính, thì những người không biết có thể cho rằng nó cũng nôm na tựa như một loại virus bệnh dịch nào đó, và họ thường phân vân không hiểu virus sẽ lây vào chỗ nào trong máy tính của mình và mình có cần cho máy tính của mình uống kháng sinh không nhỉ ?

 Sự thật không phải vậy, virus máy tính thực chất chỉ là một chương trình máy tính có khả năng tự sao chép chính nó từ đối tượng lây nhiễm này sang đối tượng khác (đối tượng có thể là các file chương trình, văn bản, đĩa mềm...), và chương trình đó mang tính phá hoại. Virus có nhiều cách lây lan và tất nhiên cũng có nhiều cách phá hoại, nhưng chỉ cần bạn nhớ rằng đó là một đoạn chương trình và đoạn chương trình đó dùng để phục vụ những mục đích không tốt
 Virus máy tính là do con người tạo ra, quả thực cho đến ngày nay có thể coi nó đã trở thành như những bệnh dịch cho những chiếc máy tính và chúng tôi, các bạn, chúng ta là những người bác sĩ, phải luôn chiến đấu với bệnh dịch và tìm ra những phương pháp mới để hạn chế và tiêu diệt chúng. Cũng như mọi vấn đề ngoài xã hội, cũng khó tránh khỏi việc có những loại bệnh mà phải dày công nghiên cứu mới trị được, hoặc cũng có những trường hợp gây ra những hậu quả khôn lường. Chính vì vậy, phương châm "Phòng hơn chống" vẫn luôn đúng đối với virus máy tính .
2. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA VIRUS MÁY TÍNH
Có thể nói virus máy tính có một quá trình phát triển khá dài, và nó luôn song hành cùng người bạn đồng hành của nó là những chiếc "máy tính", (và tất nhiên là người bạn máy tính của nó chẳng thích thú gì ). Khi mà Công nghệ phần mềm cũng như phần cứng phát triển thì virus cũng phát triển theo. Hệ điều hành thay đổi thì virus máy tính cũng tự thay đổi mình để phù hợp với hệ điều hành đó và để có thể ăn bám ký sinh. Tất nhiên là virus không tự sinh ra (và chắc thượng đế cũng chẳng muốn nặn ra một "sinh vật" như vậy).
Có thể việc viết virus mang mục đích phá hoại, thử nghiệm hay đơn giản chỉ là một thú đùa vui ác ý. Nhưng chỉ có điều những cái đầu thông minh này khiến chúng ta phải đau đầu đối phó và cuộc chiến này gần như không chấm dứt và nó vẫn tiếp diễn, và đó cũng là lý do khiến bạn phải ngồi đây và đọc những thông tin này.
Có nhiều tài liệu nói khác nhau nói về xuất xứ của virus máy tính, âu cũng là điều dễ hiểu, bởi lẽ và thời điểm đó con người chưa thể hình dung ra nổi một "xã hội" đông đúc và nguy hiểm của virus máy tính như ngày nay, điều đó cũng có nghĩa là không mấy người quan tâm tới chúng. Chỉ khi chúng gây ra những hậu quả nghiêm trọng như ngày nay, người ta mới lật lại hồ sơ để tìm hiểu. Tuy vậy, đa số các câu chuyện xoay quanh việc xuất xứ của virus máy tính đều ít nhiều liên quan tới những sự kiện sau:
1983 - Để lộ nguyên lý của trò chơi "Core War"

"Core War" là một cuộc đấu trí giữa hai đoạn chương trình máy tính do 2 lập trình viên viết ra. Mỗi đấu thủ sẽ đưa một chương trình có khả năng tự tái tạo gọi là Organism vào bộ nhớ máy tính. Khi bắt đầu cuộc chơi, mỗi đấu thủ sẽ cố gắng phá huỷ Organism của đối phương và tái tạo Organism của mình. Đấu thủ thắng cuộc là đấu thủ tự nhân bản được nhiều nhất.
Trò chơi "Core War" này được giữ kín đến năm 1983, Ken Thompson người đã viết phiên bản đầu tiên cho hệ điều hành UNIX, đã để lộ ra khi nhận một trong những giải thưởng danh dự của giới điện toán - Giải thưởng A.M Turing. Trong bài diễn văn của mình ông đã đưa ra một ý tưởng về virus máy tính dựa trên trò chơi "Core War". Cũng năm 1983, tiến sỹ Frederik Cohen đã chứng minh được sự tồn tại của virus máy tính.
Tháng 5 năm 1984 tờ báo Scientific America có đăng một bài báo mô tả về "Core War" và cung cấp cho độc giả những thông tin hướng dẫn về trò chơi này. Kể từ đó virus máy tính xuất hiện và đi kèm theo nó là cuộc chiến giữa những người viết ra virus và những người diệt virus.

1986 - Brain virus
Có thể được coi là virus máy tính đầu tiên trên thế giới, Brain âm thầm đổ bộ từ Pakistan vào nước Mỹ với mục tiêu đầu tiên là Trường Đại học Delaware. Một nơi khác trên thế giới cũng đã mô tả sự xuất hiện của virus, đó là Đại học Hebrew - Israel.
1987 - Lehigh virus xuất hiện
Lại một lần nữa liên quan tới một trường Đại học. Lehigh chính là tên của virus xuất hiện năm 1987 tại trường Đại học này. Trong thời gian này cũng có 1 số virus khác xuất hiện, đặc biệt WORM virus (sâu virus), cơn ác mộng với các hệ thống máy chủ cũng xuất hiện. Cái tên Jerusalem chắc sẽ làm cho công ty IBM nhớ mãi với tốc độ lây lan đáng nể: 500000 nhân bản trong 1 giờ.
1988 - Virus lây trên mạng
Ngày 2 tháng 11 năm 1988, Robert Morris đưa virus vào mạng máy tính quan trọng nhất của Mỹ, gây thiệt hại lớn. Từ đó trở đi người ta mới bắt đầu nhận thức được tính nguy hại của virus máy tính.
1989 - AIDS Trojan

Xuất hiện Trojan hay còn gọi là "con ngựa thành Tơ-roa", chúng không phải là virus máy tính, nhưng luôn đi cùng với khái niệm virus. "Những chú ngựa thành Tơ-roa" này khi đã gắn vào máy tính của bạn thì nó sẽ lấy cắp một số thông tin mật trên đó và gửi đến một địa chỉ mà chủ của chú ngựa này muốn nó vận chuyển đến, hoặc đơn giản chỉ là phá huỷ dữ liệu trên máy tính của bạn.

1991 - Tequila virus
Đây là loại virus đầu tiên mà giới chuyên môn gọi là virus đa hình, nó đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc chiến giữa cái thiện và cái ác trong các hệ thống máy tính.

Đây thực sự là loại virus gây đau đầu cho những người diệt virus và quả thật không dễ dàng gì để diệt chúng. Chúng có khả năng tự thay hình đổi dạng sau mỗi lần lây nhiễm, là cho việc phát hiện ra chúng quả thật là khó. Bkav có cập nhật một số loại virus tương tự như vậy, và chúng tôi biết sự khó khăn khi diệt chúng như thế nào.

 1992 - Michelangelo virus
Tiếp nối sự đáng sợ của "virus đa hình" năm 1991, thì công cụ năm 92 này tạo thêm sức mạnh cho các loại virus máy tính bằng cách tạo ra sự đa hình cực kỳ phức tạp. Quả thật họ luôn biết cách gây ra khó khăn cho những người diệt virus.
1995 - Concept virus
Sau gần 10 năm kể từ ngày virus máy tính đầu tiên xuất hiện, đây là loại virus đầu tiên có nguyên lý hoạt động gần như thay đổi hoàn toàn so với những tiền bối của nó. Chúng gây ra một cú sốc cho những công ty diệt virus cũng như những người tình nguyện trong lĩnh vực phòng chống virus máy tính. Cũng phải tự hào rằng khi virus này xuất hiện, trên thế giới chưa có loại "kháng sinh" nào thì tại Việt Nam chúng tôi đã đưa ra được giải pháp rất đơn giản để loại trừ loại virus này và đó cũng là thời điểm Bkav bắt đầu được mọi người sử dụng rộng rãi trên toàn Quốc.
Sau này những virus theo nguyên lý của Concept được gọi chung là virus macro, chúng tấn công vào các hệ soạn thảo văn bản của Microsoft (Word, Exel, Powerpoint), và những nhân viên văn phòng - những người sử dụng không am hiểu lắm về hệ thống - ắt hẳn sẽ không mấy dễ chịu với những con virus thích chọc ngoáy vào công trình đánh máy của họ
1996 - Boza virus

Khi  hãng Microsoft chuyển sang hệ điều hành Windows95 và họ cho rằng virus không thể công phá thành trì của họ được, thì năm 1996 xuất hiện virus lây trên hệ điều hành Windows95 (có lẽ không nên thách thức những kẻ xấu, điều đó chỉ thêm kích động chúng )

1999 - Melissa, Bubbleboy virus

Đây thật sự là một cơn ác mộng với các máy tình trên khắp thế giới. Sâu Melissa không những kết hợp các tính năng của sâu Internet và virus marco, mà nó còn biết khai thác một công cụ mà chúng ta thường sử dụng hàng ngày là Microsoft Outlook Express để chống lại chính chúng ta. Khi máy tính của bạn bị nhiễm Mellisa, nó sẽ tự phân phát mình đi mà khổ chủ không hề hay biết. Và bạn cũng sẽ rất bất ngờ  khi bị mang tiếng là phát tán virus.
Chỉ từ ngày thứ sáu tới ngày thứ hai tuần sau, virus này đã kịp lây nhiễm 250 ngàn máy tính trên thế giới thông qua Internet, trong đó có Việt Nam, gây thiệt hại hàng trăm triệu USD. Một lần nữa cuộc chiến lại sang một bước ngoặt mới, báo hiệu nhiều khó khăn bởi Internet đã được chứng minh là một phương tiện hữu hiệu để virus máy tính có thể lây lan trên toàn cầu chỉ trong vài tiếng đồng hồ.
Năm 1999 đúng là một năm đáng nhớ của những người sử dụng máy tính trên toàn cầu, ngoài Melissa, virus Chernobyl hay còn gọi là CIH đã phá huỷ dữ liệu của hàng triệu máy tính trên thế giới, gây thiệt hại gần 1 tỷ USD vào ngày 26 tháng 4.

2000 - DDoS, Love Letter virus
Có thể coi là vụ việc virus phá hoại lớn nhất từ trước đến nay, Love Letter có xuất xứ từ Philippines do một sinh viên nước này tạo ra, chỉ trong vòng có 6 tiếng đồng hồ đã kịp đi vòng qua 20 nước trong đó có Việt Nam, lây nhiễm 55 triệu máy tính, gây thiệt hại 8,7 tỷ USD. Theo nhận định của chúng tôi, virus này chỉ cần "cải tiến" một chút xíu thì thiệt hại có thể gấp trăm lần như thế.
Thế còn DDoS? Những virus này phát tán đi khắp nơi, nằm vùng ở những nơi nó lây nhiễm. Cuối cùng chúng sẽ đồng loạt tấn công theo kiểu "Từ chối dich vụ - Denial of Service" (yêu cầu liên tục, từ nhiều máy đồng thời, làm cho các máy chủ bị tấn công không thể phục vụ được nữa và dẫn đến từ chối những yêu cầu mới -> bị vô hiệu hoá) vào các hệ thống máy chủ khi người điều hành nó phất cờ, hoặc chúng tự định cùng một thời điểm tấn công. Và một hệ thống điện thoại của Tây Ban Nha đã là vật thí nghiệm đầu tiên.
2001 - Winux Windows/Linux Virus, Nimda, Code Red virus
Winux Windows/Linux Virusđánh dấu những virus có thể lây được trên các hệ điều hành Linux chứ không chỉ Windows. Chúng nguỵ trang dưới dạng file MP3 cho download. Nếu bạn là một người mê MP3 và mê nhạc thì phải hết sức cẩn thận.
Nimda, Code Red là những virus tấn công các đối tượng của nó bằng nhiều con đường khác nhau (từ máy chủ sang máy chủ, sang máy trạm, từ máy trạm sang máy trạm...), làm cho việc phòng chống vô cùng khó khăn, cho đến tận lúc này (tháng 9 năm 2002) ở Việt Nam vẫn còn những cơ quan với mạng máy tính có hàng trăm máy tính bị virus Nimda quấy nhiễu. Chúng cũng chỉ ra một xu hướng mới của các loại virus máy tính là "tất cả trong một", trong một virus bao gồm nhiều virus, nhiều nguyên lý khác nhau.
2002 - Sự ra đời của hàng loạt loại virus mới
Ngay trong tháng 1 năm 2002 đã có một loại virus mới ra đời. Virus này lây những file .SWF, điều chưa từng xảy ra trước đó (ShockWaveFlash - một loại công cụ giúp làm cho các trang Web thêm phong phú). Tháng 3 đánh dấu sự ra đời của loại virus viết bằng ngôn nhữ C#, một ngôn ngữ mới của Microsoft. Con sâu .Net này có tên SharpA và được viết bởi một người phụ nữ!
Tháng 5  SQLSpider ra đời và chúng tấn công các chương trình dùng SQL. Tháng 6, có vài loại virus mới ra đời:
Perrun lây qua Image JPEG (Có lẽ bạn nên cảnh giác với mọi thứ). Scalper tân công các FreeBSD/Apache Web server.
Đến đây các bạn đã nhìn nhận được phần nào lịch sử phát triển của virus máy tính. Chúng cũng được phát triển theo một trình tự lịch sử tiến hoá từ thấp đến cao. Đấy cũng chính là lí do mà chúng ta cũng luôn phải đau đầu để bắt kịp được tiến trình của chúng. Và nếu bạn là một người không đa nghi, điều đó rất tốt nhưng chúng tôi khuyên bạn nên biết nghi ngờ, bởi như bạn đã thấy, dường như tất cả mọi thứ đều có thể nhiễm virus, chúng không tha bất cứ cái gì và chúng sẽ thâm nhập vào tất cả những gì có thể. Bạn hãy tự tạo cho mình phương thức phòng chống hữu hiệu, và nếu chúng tôi có thể làm gì cho bạn, chúng tôi sẽ gắng hết sức mình như là những Bác sĩ của máy tính cho chúng uống kháng sinh vậy ).
3. CÁC LOẠI VIRUS MÁY TÍNH
 Nếu bạn là người muốn tìm hiểu sâu hơn về virus thì hãy đọc phần này, nó sẽ giúp bạn có thêm một số kiến thức về các loại virus máy tính, để có thể tự tin trong việc phòng chống chúng. Tuy nhiên, nếu không cũng không sao, bạn chỉ cần nhớ câu nói trong phần trên là đủ: "Dường như tất cả mọi thứ đều có thể nhiễm virus, chúng không tha bất cứ cái gì và chúng sẽ thâm nhập vào tất cả những gì có thể".
 
 Khi bạn bật máy tính,một đoạn chương trình nhỏ để trong ổ đĩa khởi động của bạn sẽ được thực thi. Đoạn chương trình này có nhiệm vụ nạp hệ điều hành mà bạn muốn (Windows, Linux hay Unix...). Sau khi nạp xong hệ điều hành bạn mới có thể bắt đầu sử dụng máy. Đoạn mã nói trên thường được để ở trên cùng của ổ đĩa khởi động, và chúng được gọi là "Boot sector". Những virus lây vào Boot sector thì được gọi là virus Boot.
 Virus Boot thường lây lan qua đĩa mềm là chủ yếu. Ngày nay ít khi chúng ta dùng đĩa mềm làm đĩa khởi động máy, vì vậy số lượng virus Boot không nhiều như trước. Tuy nhiên, một điều rất tệ hại là chúng ta lại thường xuyên để quên đĩa mềm trong ổ đĩa, và vô tình khi bật máy, đĩa mềm đó trở thành đĩa khởi động, điều gì xảy ra nếu chiếc đĩa đó có chứa virus Boot?
 Là những virus lây vào những file chương trình như file .com, .exe, .bat, .pif, .sys... Có lẽ khi đọc phần tiếp theo bạn sẽ tự hỏi "virus Macro cũng lây vào file, tại sao lại không gọi là virus File?". Câu trả lời nằm ở lịch sử phát triển của virus máy tính. Như bạn đã biết qua phần trên, mãi tới năm 1995 virus macro mới xuất hiện và rõ ràng nguyên lý của chúng khác xa so với những virus trước đó (những virus File) nên mặc dù cũng lây vào các File, nhưng không thể gọi chúng là virus File.
 Là loại virus lây vào những file văn bản (Microsoft Word) hay bảng tính (Microsoft Excel) và cả (Microsoft Powerpoint) trong bộ Microsoft Office. Macro là những đoạn mã giúp cho các file của Ofice tăng thêm một số tính năng, có thể định một số công việc sẵn có vào trong macro ấy, và mỗi lần gọi  macro là các phần cái sẵn lần lượt được thực hiện, giúp người sử dụng giảm bớt được công thao tác. Có thể hiểu nôm na việc dùng Macro giống như việc ta ghi lại các thao tác, để rồi sau đó cho tự động lặp lại các thao tác đó với chỉ một lệnh duy nhât.
 Ở Việt Nam không có nhiều người dùng đến các macro, vì vậy Bkav có một tuỳ chọn là diệt "Tất cả các Macro" hay "All Macro", khi chọn tuỳ chọn này thì Bkav sẽ xoá tất cả các macro có trong máy mà không cần biết chúng có phải là virus hay không, điều này đồng nghĩa với việc tất cả các virus macro có trong máy cũng sẽ bị diệt theo. Như vậy, nếu bạn có sử dụng macro cho công việc của mình thì không nên chọn tuỳ chọn này (khi không dùng tuỳ chọn này thì bkav chỉ diệt những macro đã được xác minh chính xác là virus), còn nếu bạn không dùng đến macro hay cũng chẳng để ý nó là cái gì (tức là bạn không dùng đến chúng) thì bạn nên dùng tuỳ chọn này, nó sẽ giúp bạn loại bỏ nỗi lo với những virus macro bất kể chúng vừa xuất hiện (đồng nghĩa với việc chưa có phần mềm diệt virus nào nhận diện được chính xác nó là virus) hay xuất hiện đã lâu (đồng nghĩa với việc đã được các phần mèm diệt virus nhận diện chính xác).
Con ngựa Thành Tơ-roa - Trojan Horse
 Thuật ngữ này dựa vào một điển tích cổ, đó là cuộc chiến giữa người Hy Lạp và người thành Tơ-roa. Thành Tơ-roa là một thành trì kiên cố, quân Hy Lạp không sao có thể đột nhập vào được. Người ta đã nghĩ ra một kế, giả vờ giảng hoà, sau đó tặng thành Tơ-roa một con ngựa gỗ khổng lồ. Sau khi ngựa được đưa vào trong thành, đêm xuống những quân lính từ trong bụng ngựa xông ra và đánh chiếm thành từ bên trong.
 Phương pháp trên cũng chính là cách mà các Trojan máy tính áp dụng. Đầu tiên kẻ viết ra Trojan bằng cách nào đó lừa cho đối phương sử dụng chương trình của mình, khi chương trình này chạy thì vẻ bề ngoài cũng như những chương trình bình thường (một trò chơi, hay là những màn bắn pháo hoa đẹp mắt chảng hạn). Tuy nhiên, song song với quá trình đó, một phần của Trojan sẽ bí mật cài đặt lên máy nạn nhân. Đến một thời điểm định trước nào đó chương trình này có thể sẽ ra tay xoá dữ liệu, hay gửi những thứ cần thiết cho chủ nhân của nó ở trên mạng (ở Việt Nam đã từng rất phổ biến việc lấy cắp mật khẩu truy nhập Internet của người sử dụng và gửi bí mật cho chủ nhân của các Trojan).
 Khác với virus, Trojan là một đoạn mã chương trình HOÀN TOÀN KHÔNG CÓ TÍNH CHẤT LÂY LAN Nó chỉ có thể được cài đặt bằng cách người tạo ra nó "lừa" nạn nhân. Còn virus thì tự động tìm kiếm nạn nhân để lây lan.
Thông thường các phần mềm có chứa Trojan được phân phối như là các phần mềm tiện ích, phần mềm mới hấp dẫn, nhằm dễ thu hút người sử dụng. Vì vậy bạn hãy cẩn thận với những điều mới lạ, hấp dẫn nhưng không rõ nguồn gốc!
Sâu Internet Worm
 Sâu Internet -Worm quả là một bước tiến đáng kể và đáng sợ nữa của virus. Worm kết hợp cả sức phá hoại của virus, sự bí mật của Trojan và hơn hết là sự lây lan đáng sợ mà những kẻ viết virus trang bị cho nó, cũng một phần. Một kẻ phá hoại với vũ  khí tối tân. Tiêu biểu như Mellisa hay Love Letter. Với sự lây lan đáng sợ chúng đã làm tê liệt hàng loạt các hệ thống máy chủ, làm ách tắc đường truyền.
 Worm thường phát tán bằng cách tìm các địa chỉ trong sổ địa chỉ (Address book) của máy mà nó đang lây nhiễm, ở đó thường là địa chỉ của bạn bè, người thân, khách hàng... của chủ máy. Tiếp đến, nó tự gửi chính nó cho những địa chỉ mà nó tìm thấy, tất nhiên với địa chỉ người gửi là chính bạn, chủ sở hữu của chiếc máy. Điều nguy hiểm là những việc này diễn ra mà bạn không hề hay biết, chỉ khi bạn nhận được thông báo là bạn đã gửi virus cho bạn bè, người thân thì bạn mới vỡ lẽ rằng máy tính của mình bị nhiễm virus (mà chưa chắc bạn đã tin như thế!!?). Với cách hoàn toàn tương tự trên những máy nạn nhân, Worm có thể nhanh chóng lây lan trên toàn cầu theo cấp số nhân, điều đó lý giải tại sao chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ mà Mellisa và Love Letter lại có thể lây lan tới hàng chục triệu máy tính trên toàn cầu. Cái tên của nó Worm hay "Sâu Internet" cho ta hình dung ra việc những con virus máy tính "bò" từ máy tính này qua máy tính khác trên các "cành cây" Internet.
 Với sự lây lan nhanh và rộng lớn như vậy, Worm thường được kẻ viết ra chúng cài thêm nhiều tính năng đặc biêt, chẳng hạn như chúng có thể định cùng một ngày giờ và đồng loạt từ các máy nạn nhân (hàng triệu máy) tấn công vào một địa chỉ nào đó, máy chủ có mạnh đến mấy thì trước một cuộc tấn công tổng lực như vậy thì cũng phải bó tay, Website của nhà Trắng là một ví dụ. Ngoài ra, chúng còn có thể cho phép chủ nhân của chúng truy nhập vào máy của nạn nhân và có thể làm đủ mọi thứ như ngồi trên máy dó một cách bất hợp pháp.
 Ở đây chúng tôi chỉ có thể nói sơ qua về lịch sử, cũng như phân loại virus nhằm cung cấp cho các bạn một cách nhìn nhận đúng đắn về virus máy tính, để từ đó sẽ có những phương pháp hữu hiệu ngăn chặn chúng.
(Sưu tầm)
Thursday, November 23, 2006, 10:12:34 PM
Trong quá trình sử dụng máy tính, bạn nên bỏ ra một chút thời gian để chăm sóc nó. Một số thao tác đơn giản có thể giúp máy chạy nhanh và êm hơn, cũng như có thể phòng tránh những hư hỏng.
- Lau chùi và tra dầu cho quạt: Trong các thiết bị của máy tính thì quạt dễ bị đóng bụi và gây tiếng ồn nhất. Để lau chùi, trước tiên bạn phải tháo quạt ra, sau đó dùng một chổi lông mềm quét sạch bụi xung quanh và trên cánh quạt.
 
Chú ý, bạn không nên dùng khí nén để thổi bụi trên các cánh quạt, vì tốc độ thổi của khí nén có thể làm cánh quạt quay quá tốc độ giới hạn và làm hỏng quạt. Để tra dầu cho quạt thì trước tiên bạn dùng vít hay vật nhọn nào đó tháo nắp nhựa đậy trên quạt (có một số quạt không có nắp này), tiếp theo gỡ miếng bảo vệ ra, sau đó nhỏ duy nhất một giọt dầu vào lỗ chính giữa của quạt, rồi đậy kín lại là xong.
 


Lau chùi và tra dầu cho quạt

- Làm sạch các bộ phận bên trong: Công việc này nên làm ít nhất hai lần mỗi năm. Đầu tiên, bạn mở thùng máy ra và dùng khí nén để thổi vào các góc khuất của máy trước, sau đó bạn mới thổi tới các phần còn lại. Nếu không có dụng cụ thổi khí nén thì bạn có thể dùng chổi lông mềm để lau chùi cũng được, sau đó lấy quạt gió thường để thổi sạch bụi còn bám vào máy. Bạn cũng cần làm sạch bộ phận tản nhiệt của CPU và các bộ tản nhiệt khác. Tháo quạt CPU ra, sau đó lấy khí nén hay chổi lông làm sạch các cánh tản nhiệt, giúp CPU giải nhiệt tốt hơn.
 
- Đặt máy ở vị trí thoáng mát: Đặt máy vi tính cao hơn mặt đất ít nhất 30 cm và xa tường ở khoảng cách tương tự. Chú ý không nên đặt máy ở góc tường và trong phòng kín vì nó có thể làm không khí trong phòng nóng lên và gây nóng máy! Bạn cũng nên tránh để chó, mèo đến gần máy vì lông của nó có thể bay vào máy tính, quạt, bàn phím...
 
- Thường xuyên kiểm tra hệ điều hành: Tốt nhất là nên nâng cấp nó lên phiên bản mới nhất, cũng như tải các bản update để vá các lỗ hổng.
 
- Chạy Defragment cho ổ cứng: Thực hiện thao tác này ít nhất một lần mỗi tháng nhằm sắp xếp lại các dữ liệu trên ổ cứng, giúp máy chạy nhanh hơn. Để chạy Defragment thì bạn vào phần: Startprogramsaccessoriessystem toolsdisk defragmenter.
 
- Loại bỏ các chương trình chạy ở chế độ Startup: Quá nhiều chương trình ở chế độ Startup sẽ làm máy vi tính của bạn chạy chậm trong khi khởi động.
 
Để bỏ bớt có hai cách: 1- Bỏ dấu chọn chạy ở chế độ Startup ngay trên chính chương trình đó (nếu có); 2- Vào Start/Run, gõ lệnh là msconfig, tiếp theo nhấn OK. Trong phần này bạn nhấp vào Tab Startup, tiếp theo bỏ dấu chọn các chương trình cần bỏ và nhấn OK là xong.
 
- Chạy Disk Cleanup: Nên thực hiện thường xuyên nhằm loại bỏ bớt các file không cần thiết để tăng dung lượng trống của ổ cứng, giúp máy tính chạy nhanh hơn. Để chạy nó bạn vào: Startprogramsaccessoriessystem toolsdisk cleanup.
 
- Tìm và loại bỏ Spyware: Có thể dùng chương trình như Spybot Search & Destroy để loại bỏ.
 
- Quét virus: Nên làm thường xuyên với một số chương trình như Norton Antivirus, Mc Afee, Bkav... đồng thời luôn luôn cập nhật các phiên bản diệt virus mới nhất.
 
(Sưu tầm)
Friday, October 20, 2006, 7:55:16 AM
Khi bạn muốn disable một card mạng, nhưng lại hiện ra một thông báo bạn không thể disable được.

Cách xử lý như sau:

Bạn tạo một file fix.bat sau đó copy những dòng dưới đây:

@echo off
:: Batch file that tries to remedy error # 800710D9
:: "Unable to read from or write to the database".
:: Author: Torgeir Bakken
:: Date: 2004-08-30

cls
echo This batch file will now try to remedy the error 0x800710D9.
echo To abort and not run it now, hold down Ctrl and press C.
echo Otherwise press the space bar to continue.
pause

:: Stop the Cryptographic service
%SystemRoot%System32net.exe stop CryptSvc

:: Rename all log files in the %SystemRoot%Security folder
FOR %%a in (%SystemRoot%Security*.log) DO move /y %%a %%a.old

:: Rename the %SystemRoot%System32CatRoot2 folder
move /y %SystemRoot%System32CatRoot2 %SystemRoot%System32CatRoot2old

IF not exist %SystemRoot%System32CatRoot2 GOTO CONT01

:: In case the folder rename failed because of locked files
:: rename all log files in the %SystemRoot%System32CatRoot2 folder
FOR %%a in (%SystemRoot%System32CatRoot2*.log) DO move /y %%a %%a.old
SET catroot2locked=True

:CONT01
cls
echo.
echo Please wait, this might take some time...

:: Unregister DLL files that are associated with Cryptographic Services
CD /D %SystemRoot%System32
start /wait regsvr32.exe /s /u softpub.dll
start /wait regsvr32.exe /s /u wintrust.dll
start /wait regsvr32.exe /s /u initpki.dll
start /wait regsvr32.exe /s /u dssenh.dll
start /wait regsvr32.exe /s /u rsaenh.dll
start /wait regsvr32.exe /s /u gpkcsp.dll
start /wait regsvr32.exe /s /u sccbase.dll
start /wait regsvr32.exe /s /u slbcsp.dll
start /wait regsvr32.exe /s /u cryptdlg.dll

:: Reregister DLL files that are associated with Cryptographic Services
start /wait regsvr32.exe /s softpub.dll
start /wait regsvr32.exe /s wintrust.dll
start /wait regsvr32.exe /s initpki.dll
start /wait regsvr32.exe /s dssenh.dll
start /wait regsvr32.exe /s rsaenh.dll
start /wait regsvr32.exe /s gpkcsp.dll
start /wait regsvr32.exe /s sccbase.dll
start /wait regsvr32.exe /s slbcsp.dll
start /wait regsvr32.exe /s cryptdlg.dll

:: Configure and start the Cryptographic service
%SystemRoot%system32sc.exe config CryptSvc start= auto
:: Start the Cryptographic Service
%SystemRoot%system32net.exe start CryptSvc
cls

echo.
If "%catroot2locked%"=="True" GOTO CONT02
echo Finished, please reboot the computer and then try to install SP2 again...

GOTO END
:CONT02
echo Please run the batch file again with a newly restarted computer...
echo (but if it is newly restarted, just do a reboot and then try
echo to install SP2 again)...
GOTO END

:END
echo.
pause


Bạn chạy file này và vấn đề được giải quyết
Thursday, September 28, 2006, 4:42:41 PM
MÁY TÍNH TỰ KHỞI ĐỘNG LẠI

Hiện tượng máy tính tự khởi động lại mà không có thông báo lỗi là vấn đề "đau đầu" của nhiều bạn đọc. Cùng một hiện tượng nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau: có thể do lỗi của Windows, xung đột giữa các phần mềm, trình điều khiển thiết bị phần cứng gây tranh chấp hoặc phần cứng kém chất lượng, không ổn định. Hiện tượng này xảy ra bất kể là máy mới mua, mới ráp hoặc máy cũ, đang sử dụng, chỉ xảy ra thỉnh thoảng hay xảy ra liên tục. Tự khởi động lại khi máy đang shutdown hay bất kể lúc nào. Lúc khởi động hoặc khi chạy những ứng dụng chiếm nhiều tài nguyên hệ thống...

Vì chúng xảy ra không theo một quy luật nào cả, để xác định nguyên nhân chính xác đòi hỏi bạn phải có phần cứng thay thế, thời gian và tính kiên nhẫn. Trong trường hợp này, chúng tôi thường sử dụng phép thử đúng sai để loại suy dần các nguyên nhân có thể gây ra hiện tượng máy tính tự khởi động lại.
Kiểm tra phần mềm
Tiến hành kiểm tra phần mềm nếu hiện tượng này xảy ra sau khi bạn chỉnh sửa hệ thống, cài đặt hoặc gỡ bỏ ứng dụng, phần mềm... (Lưu ý những thao tác có ảnh hưởng đến hệ thống). Với Windows 2000/XP, đăng nhập với quyền Administrator, vào Control PannelAdministrative ToolsEvent Viewew để xem thông báo lỗi. Đây là một trong những nơi cần tham khảo, tìm hiểu nguyên nhân để biết cách khắc phục.

Trong trường hợp cần thiết, tải về từ website của nhà sản xuất và cập nhật các trình điều khiển thiết bị phần cứng như chipset, card đồ họa, card âm thanh, card mạng... Bạn nên chọn những driver tương thích với phiên bản hệ điều hành đang sử dụng.

Thiết lập mặc định Windows NT/2000/XP sẽ tự khởi động lại máy khi gặp lỗi liên quan đến hệ thống (kể cả trong quá trình shutdown). Giải pháp tạm thời là tắt tính năng này, thực hiện như sau:

+ Nhấn phải chuột trên My Computer, chọn Properties để vào System Properties.

+ Chọn Tab Advanced, trong mục Start and Recovery, chọn Settings.

+ Bỏ dấu tùy chọn mục "Automatically Restart".

+ Nhấn OK để xác nhận thay đổi và khởi động lại.

Việc bỏ tùy chọn Automatically Restart sẽ làm hệ thống bị treo hoặc hiển thị "màn hình xanh chết chóc" khi gặp lỗi (hình 1). Điều này sẽ giúp bạn dễ xác định được nguyên nhân gây lỗi hơn. Để khắc phục, hãy cài lại Windows với tùy chọn R (Repair) để Windows tự sửa lỗi. Nếu không thể khắc phục bằng việc cài lại, bạn nên format phân vùng đĩa cứng và cài mới Windows. Tham khảo thêm thông tin về cách cài đặt trong mục Làm mới Windows, bài viết "Trẻ hóa Windows" (ID:A0305_103).

Kiểm tra phần cứng


Chúng ta không thể (hoặc không dám) can thiệp sâu vào phần cứng, chỉnh sửa hoặc thay đổi như phần mềm. Vì vậy, "thay và thử" là giải pháp chúng tôi áp dụng nhằm xác định nguyên nhân. Trong trường hợp này, RAM và bộ nguồn (Power Supply Unit - PSU) là hai phần cứng bạn cần quan tâm đặc biệt.

Kinh nghiệm thực tế cho thấy, với hệ thống P3 (hoặc tương đương), RAM là phần cứng đầu tiên cần kiểm tra nhưng với các hệ thống P4 hiện nay, phần cứng đầu tiên cần kiểm tra là bộ nguồn.

RAM

Một số phần mềm (miễn phí hoặc có phí) sẽ giúp bạn kiểm tra RAM như Memtest86 (www.memtest86.com), Gold Memory (www.goldmemory.cz). Tuy nhiên, việc sử dụng phần mềm kiểm tra sẽ mất nhiều thời gian với những thanh RAM có dung lượng lớn (512MB hoặc 1GB). Vì vậy, "thay và thử" sẽ giúp bạn tránh khỏi cảnh "đợi chờ" nếu có sẵn RAM thay thế.

Bộ nguồn
Bộ nguồn là một thiết bị phần cứng quan trọng, cung cấp năng lượng hoạt động cho toàn hệ thống. Tuy nhiên, việc lựa chọn bộ nguồn đã không được người dùng quan tâm trong một thời gian dài. Với hàng loạt công nghệ mới chạy đôi hoặc "2 trong 1" như RAM dual channel, đĩa cứng RAID, đồ họa SLI/CrossFire, dual monitor, CPU dual core... Bộ nguồn càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết bởi nó quyết định sự ổn định của hệ thống, tuổi thọ của các thiết bị phần cứng khác. Gánh nặng này đã vượt quá khả năng "chịu đựng" của những bộ nguồn không tên tuổi trên thị trường, kể cả những bộ nguồn được dán nhãn 600 - 700W. Vì vậy, bạn đừng tiếc tiền khi đầu tư cho bộ nguồn của hệ thống vì chúng tránh cho bạn những sự cố đáng tiếc khi xảy ra quá tải. Tham khảo thêm thông tin liên quan việc lựa chọn bộ nguồn hợp lý trong bài "Giải bài toán nguồn điện (ID: A0505_131)" và bài "Bộ nguồn - Gánh PC tải nặng" (ID: A1205_56).

Lưu ý
- Trong quá trình kiểm tra, bạn phải lưu ý vấn đề tĩnh điện và tiếp đất của cơ thể để tránh gây hỏng hóc cho các thiết bị, linh kiện.

- Sao lưu những dữ liệu quan trọng để tránh mất mát khi kiểm tra.

- Việc kiểm tra phần cứng đòi hỏi phải có chuyên môn và kinh nghiệm, nếu có thể, bạn nên nhờ người có kinh nghiệm giúp đỡ.

- Điện áp trồi sụt cũng là nguyên nhân làm máy tính không ổn định. Điện áp quá cao hay quá thấp có thể làm hư hỏng thiết bị phần cứng. Nếu có thể, bạn nên trang bị ổn áp hoặc hoặc tốt hơn là UPS cho "cục cưng" của mình.

XP LUÔN KIỂM TRA ĐĨA CỨNG

Thật bực mình khi Windows XP luôn chạy checkdisk (tương tự scandisk của Win98) mỗi khi khởi động dù bạn đã tắt máy đúng cách. Nếu không muốn phiền phức, bạn có thể tắt tính năng này; tuy nhiên, bạn phải chắc rằng hệ thống vẫn hoạt động tốt (trừ việc luôn chạy checkdisk). Trước khi sử dụng giải pháp này, chúng ta thử thực hiện một số thao tác sau.

- Trước hết, bạn hãy kiểm tra các ứng dụng tự động chạy trong Scheduled Tasks. Chọn Start.Programs.Accessories.System Tools.Scheduled Task để xem những chương trình nào đang sử dụng tính năng này. Xóa tất cả những thứ liên quan đến Chkdsk hoặc Autochk.

- Thực hiện việc kiểm tra đĩa cứng một lần nữa với tiện ích checkdisk để Windows tự kiểm tra và sửa lỗi. Thực hiện như sau: Trong Windows Explorer, nhấn phải chuột trên phân vùng cần kiểm tra, chọn Properties. Trong tab Tools, chọn Check Now trong mục Error Checking. Đánh dấu các tùy chọn trong Check Disk Options trước khi nhấn Start. Với phân vùng hệ thống (phân vùng cài đặt Windows), checkdisk chỉ kiểm tra trong lần khởi động kế tiếp (hình 2).

- Nếu checkdisk không thể hoàn tất quá trình kiểm tra (treo máy) hoặc không khắc phục được lỗi, hãy sử dụng tiện ích checkdisk (chkdsk.exe), fixmbr và fixboot của Recovery Console (bộ tiện ích có trong đĩa cài đặt Windows) để kiểm tra Master Boot Record (MBR) và các tập tin hệ thống. Tham khảo cách sử dụng Recovery Console trong bài "Recovery Console - DOS trong XP" (ID: A0203_71).

- Một trường hợp khác là cấu trúc logic của phân vùng đĩa cứng bị lỗi, bạn nên copy tất cả dữ liệu sang phân vùng khác, sau đó format phân vùng bị lỗi rồi chép dữ liệu trở lại.

- Kế đến, kiểm tra trường hợp lỗi của các phần mềm. Chọn Start.Run để mở cửa sổ DOS Prompt; gõ vào lệnh "msconfig" và nhấn OK để mở cửa sổ System Configuration Utility. Trong giao diện System Configuration Utility, chọn tab Startup và bỏ tất cả các tùy chọn được liệt kê trong Startup Item (tương ứng với các ứng dụng được nạp trong quá trình khởi động). Nhấn OK và chọn Restart để khởi động lại máy. Khi Windows khởi động lại, cửa sổ System Configuration Utility sẽ xuất hiện. Nếu không có bất kỳ trục trặc nào xảy ra, đánh dấu chọn Dont show this message or launch the System Configuration Utility và nhấn OK. Kiểm tra xem hiện tượng checkdisk còn xuất hiện không. Nếu không, mở cửa sổ System Configuration Utility, lần lượt đánh dấu chọn từng mục trong Startup Item và khởi động lại để kiểm tra cho đến khi phát hiện được phần mềm gây lỗi. Gỡ bỏ chúng và cài đặt phiên bản mới hơn hoặc thay thế bằng phần mềm khác có tính năng tương đương.

TẮT TÍNH NĂNG SCANDISK/CHECKDISK

- Với Windows 98 và 98SE. Chọn Start.Run, gõ lệnh "msconfig" và nhấn OK. Trong cửa sổ System Configuration Utility, chọn mục Advanced trong tab General và đánh dấu chọn Disable ScanDisk after bad shutdown.
- Với Windows ME. Chọn Start.Run, gõ lệnh "regedit.exe" và nhấn OK để mở cửa sổ Registry Editor. Tìm đến khóa DisableScandiskOnBoot theo đường dẫn HKEY_LOCAL_MACHINESystemCurrentControlSetContro lFileSystem, thay đổi Value data thành 01 (00 nếu muốn kích hoạt lại tính năng này). Khởi động lại máy tính để những thay đổi có hiệu lực.
Với Windows 2000/XP. Trong Registry Editor (regedit.exe), tìm đến nhánh HKEY_LOCAL_MACHINESystemCurrentControlSetContro lSession ManagerBootExecute, xóa dòng lệnh trong Value data. Khởi động lại máy tính để thay đổi có hiệu lực.
Lưu ý: Trước khi tiến hành chỉnh sửa Registry, bạn hãy thực hiện sao lưu Registry (tham khảo bài "Chăm sóc và bảo dưỡng Windows Registry", ID: A0205_90).
 
Thursday, September 28, 2006, 4:40:17 PM
 

Account: Tài khoản ,là sự kết hợp của hai yếu tố username và password do một dịch vụ nào đó đã cung cấp cho bạn khi bạn đã đăng ký với họ để bảo mật cho bạn

ATM: Là chữ viết tắt của "Asynchronous Transfer Mode". Đây là một kỹ thuật mạng định hướng kết nối mà sử dụng những cell nhỏ có kích thước cố định ở mức thấp nhất. ATM có ưu điểm về khả năng hỗ trợ dữ liệu thoại và video

ACK: Là chữ viết tắt của "Acknowledgement"

ARP: Là chữ viết tắt của "Address Resolution Protocol". Giao thức TCP/IP được sử dụng để liên kết động một địa chỉ IP cấp cao vào một địa chỉ phần cứng cấp thấp

Anonymous: Ẩn danh, nặc danh

Buffer Overflow: Lỗi tràn bộ đệm. Đây là một trong những kỹ thuật Hacking kinh điển nhất

CGI: Là chữ viết tắt của "Common Gateway Interface". Đây là một phương pháp cho phép giao tiếp giữa server và chương trình nhờ các định dạng đặc tả thông tin.
- Lập trình CGI cho phép viết chương trình nhận lệnh khởi đầu từ trang web, trang web dùng định dạng HTML để khởi tạo chương trình
- Chương trình CGI chạy dưới biến môi trường duy nhất. Khi WWW khởi tạo chương trình CGI nó tạo ra một số thông tin đặc biệt cho chương trình và đáp ứng trở lại từ chương trình CGI. Sau đó server xác định loại file chương trình cần thực thi.
- Nói tóm lại lập trình CGI là viết chương trình nhận và truyền dữ liệu qua Internet tới WWW server. Chương trình CGI sử dụng dữ liệu đó và gửi đáp ứng HTML trở lại máy khách

Cookie: Là những phần dữ liệu nhỏ có cấu trú được chia sẻ giữa web site và browser của người dùng đã được mã hoá bởi Website đó. cookies được lưu trữ dưới những file dữ liệu nhỏ dạng text (size dưới 4k). Chúng được các site tạo ra để lưu trữ/truy tìm/nhận biết các thông tin về người dùng đã ghé thăm site và những vùng mà họ đi qua trong site. Những thông tin này có thể bao gồm tên/định danh người dùng, mật khẩu, sở thích, thói quen...

Crack Password: Bẻ khoá mật khẩu

Compile: Biên dịch (1 chương trình nào đó)

Client: Máy con,khách ,dùng để kết nối với máy chủ (Server)
Covering Tracks: Sau khi đã có những thông tin cần thiết, hacker tìm cách xoá dấu vết, xoá các file log của hệ điều hành làm cho người quản lý không nhận ra hệ thống đã bị xâm nhập hoặc có biết cũng không tìm ra kẻ xâm nhập là ai

Daemon: Daemon (hay còn được gọi là "service") là một chương trình chạy trên một cổng nhất định nào đó. Nó sẽ chịu đáp ứng lại mọi yêu cầu của client khi client này kết nối đến server trên cổng đó. Ví dụ như smtp daemon theo mặc định chạy trên cổng 25. Để có thể check mail, máy của bạn phải kết nối đến server này trên cổng 25, cổng mà smtp daemon đang nắm giữ!

DNS: Là chữ viết tắt của "Domain Name System". Một máy chủ DNS đợi kết nối ở cổng số 80, có nghĩa là nếu bạn muốn kết nối vào máy chủ đó, bạn phải kết nối đến cổng số 80. Máy chủ chạy DNS chuyển hostname bằng các chữ cái thành các chữ số tương ứng và ngược lại.
Ví dụ : 192.168.2.0 --localhost và localhost--192.168.2.1

DoS: Là chữ viết tắt của "Denial of Service", tức là "Tấn công từ chối dịch vụ". Nghĩa là Hacker sẽ chiếm dụng một lựợng lớn tài nguyên trên server, tài nguyên có thể là băng thông, bộ nhớ, cpu, đĩa cứng, ... làm cho server không thể nào đáp ứng các yêu cầu khác từ các clients của những người dùng bình thường và có thể nhanh chónh bị ngừng hoạt động, crash hoặc reboot

Debug: Là chương trình đi kèm với DOS-dĩ nhiên là mọi version của Win đều có chương trình này. Đây là một công cụ tuyệt vời để gỡ rối chương trình,unassembling và cracking,đọc bộ nhớ bị che giấu như boot sector và nhiều hơn nữa... Yêu cầu các bạn phải biết assembly mới dùng được debug

Domain: Là tên miền của 1 Website nào đó
Ví dụ : http://www.langdu.de

Decryption: Giải mã

DES: Là chữ viết tắt của "Data Encrypt Standar". Đây là một trong những chuẫn mã hoá password thông dụng, rất khó bị crack, chỉ có một cách duy nhất và cũng là dễ nhất là dùng tự điển

Exploit: Khai thác (lỗi nào đó)

Encryption: Mã hoá

Ethernet: Là công nghệ nối mạng có năng lực mạnh được sử dụng hầu hết trong các mạng LAN. Đây là mạng dùng CSMA/CD (carrier sense media access/collision detection)

EGP: Là chữ viết tắt của "Exterior Gateway Protocol". Đây là một thuật ngữ áp dụng cho giao thức nào được sử dụng bởi bộ định tuyến trong một hệ tự quản để thông báo khả năng đi đến mạng cho ho bộ định tuyến trong hệ tự quản khác

Enumeration: Là tìm kiếm những tài nguyên đựoc bảo vệ kém, hoạch tài khoản người dùng mà có thể sử dụng để xâm nhập. Nó bao gồm các mật khẩu mặc định, các script và dich vụ mặc định. Rât nhiều người quản trị mạng không biết đến hoặc không sửa đổi lại các giá trị này

Escalating Privileges: Là Hacker tìm cách kiểm soát toàn bộ hệ thống. Hacker sẽ tìm cách crack password của admin, hoặc sử dụng lỗ hổng để leo thang đặc quyền trong trường hợp họr xâm nhập đựợc vào mạng với tài khoản guest. John và Riper là hai chương trình crack password rất hay được sử dụng

FTP: Là chữ viết tắt của "File Transfer Protocol". Đây là giao thức truyền file trên mạng. Thường dùng để upload file lên Host, Server. Cổng mặc định là 21

Fake IP: IP giả mạo, IP không có thật

Fragmentation Scanning: Là một bước tiến hoá nữa của các chương trình Scanner. Thay vì gởi các packet như trước để thăm dò , ta sẽ chia nhỏ packet này ra thành nhiều packet nhỏ hơn nhằm tránh sự phát hiện của các chương trình packet filter. Các packet này sau khi lọt qua được các chương trình kiểm tra sẽ được các deamon ráp nối lại .

Firewall: Là bước tường lửa dành cho mạng server hãng xữơng hoặc cá nhân.

GNU Debugger: Là chương trình biên dịch gcc và công cụ gỡ rối gdb

GUI: Là chữ viết tắt của "Graphic User Interface". Đây là giao diện đồ hoạ người sử dụng trong hệ điều hành Linux

Get Admin: Là "Leo thang đặc quyền" hay còn gọi là "Leo thang mức ưu tiên". Đây được coi là một trong những bước quan trọng khi Hacker đột nhập vào các hệ thống. Giả sử bạn chiếm được quyền và đăng nhập vào hệ thống Win NT. Nhưng user bạn lấy được không có quyền tương đương như nhóm Administrators mà thuộc nhóm có quyền thấp hơn. Như vậy ta không có quyền làm nhiều thao tác như Admin. Vậy điều ta phải làm là leo thang đặc quyền để có được quyền như Admin. Có rất nhiều cong cụ thể thực hiện điều này : Get admin, Sechole, ntuser ...

Global: Tiện ích dòng lệnh này sẽ hiển thị các thành viên của Global Group trên server hay domain được chỉ định.
Cú pháp : C:>global "Domain Users" domain1

Gaining Access: Là dựa vào những thông tin đã nắm được ở bước Enumeration mà hacker tấn công vào lỗi tràn bộ đệm, lấy và giả mã file password, hay thô thiển nhất là brute force (kiểm tra tất cả các trường hợp) password. Các tool thường được sử dụng ở bước này là NAT, podium, hoặc Lopht

HTTP: Là chữ viết tắt của "Hyper-Text Transfer Protocol". Đây là giao thức được sử dụng trên Internet

HTML: Là chữ viết tắt của "Hyper Text Markup Language", tức là ngôn ngữ siêu văn bản. Đây là một ngôn ngữ dùng để tạo trang web, chứa các trang văn bản và những tag (th&#7867 định dạng báo cho web browser biết làm thế nào thông dịch và thể hiện trang web trên màn hình.

Web page là trang văn bản thô (text only), nhưng về mặt ngữ nghĩa gồm 2 nội dung:
- Đoạn văn bản cụ thể.
- Các tag (trường văn bản được viết theo qui định) miêu tả một hành vi nào đó, thường là một mối liên kết (hyperlink) đến trang web khác

IP: Là chữ viết tắt của "Internet Protocal". Mỗi máy khi kết nối vào Internet đều có 1 địa chỉ duy nhất, đó là địa chỉ IP. Địa chỉ này dùng để phân biệt máy tính đó với các máy khác còn lại trên mạng Internet. Địa chỉ IP chia làm 2 loại : IP động & IP tĩnh. Thường các bạn kết nối bằng PC cá nhân là IP động, còn IP của những server cung cấp Hosting/Domain có IP tĩnh. Địa chỉ IP là một số 32 bit, = 4 byte nên có thể xem một địa chỉ IP được tạo thành từ 4 số có kích thước 1 byte, mỗi số có giá trị từ 0 đến 255. Mỗi địa chỉ IP đều gồm 2 phần là địa chỉ mạng (network) và địa chỉ máy (host). Để xem IP của máy tính mình, bạn vào Start -- > Run rồi gõ : winipcfg
Để xem IP của một trang Web thì bạn dùng lệnh nslookup

ICMP: Là chữ viết tắt của "Internet Control Message Protocol". Đây là giao thức xử lý các thông báo trạng thái cho IP. ICMP được dùng để thông báo các lỗi xảy ra trong quá trình truyền đi của các gói dữ liệu trên mạng. ICMP thuộc tầng vận huyển - Transpoort Layer

IIS: Là chữ viết tắt của "Internet Information Server". Đây là một chương trình WebServer nổi tiếng của Microsoft và đã từng bị một lỗi bảo mật rất lớn

IPC: Là chữ viết tắt của "Inter-Process Communication". Được dùng trong việc chia sẻ dữ liệu giữa các ứng dụng và máy tính trên mạng (NT/2K). Khi một máy được khởi động và log vào mạng, hdh sẽ tạo 1 chia sẻ ngầm định tên là IPC$. Nó sẽ giúp cho các máy khác có thể nhìn thấy và kết nối đến các chia sẻ trên máy này

Info: Là chữ viết tắt của "Information", tức là thông tin

LAN: Là chữ viết tắt của "Local Area Network". Một hệ thống các máy tính và thiết bị ngoại vi được liên kết với nhau. Người sử dụng mạng nội bộ có thể chia sẻ dữ liệu trên đĩa cứng, trong mạng và chia sẻ máy in

Login: Đăng nhập, liên kết

Log: Là thao tác ghi nhận lại quá trình sử dụng dịch vụ của bạn. Khi xâm nhập 1 máy tính hay server thì việc xoá log là không thể thiếu. Bởi vì, nếu không xoá log thì từ đó người ta có thể tìm ra IP thật của bạn

Local: Giống như Global nhưng nó hiển thị các thành viên của Local Group. Chẳng hạn như bạn muốn truy vấn danh sách Administrator Group.

mIRC: Là chương trình chat (client: dành cho người sử dụng chat) đựơc anh chàng Khaled Mardam-Bey khởi đầu, mIRC chỉ chuyên dụng cho Windows thôi, nó được viết bằng VC++ , tuy nhiên vẫn có chương trình chat xài cho Macintosh, linux như: X-Chat ..., có thể nói mIRC là phần mềm chat đầu tiên (hình như vào năm 1989), sau đó là các sản phẩm khác của Yahoo, AOL (ICQ,AIM)

MAC: Là chữ viết tắt của "Media Access Control"

NAV: Là chữ viết tắt của tên chương trình "Norton Anti-Virus" của hãng Symantec. Đây là chương trình quét Virus rất nổi tiếng và phổ biến

Nuke: Là một trong những kỹ thuật khá lợi hại. Nếu như bạn biết được IP của 1 máy tính bất kỳ đang kết nối thì nuke hoàn toàn có thể làm cho máy tính đó disconnect, cho dù đó là của cả 1 mạng LAN

OS: Là chữ viết tắt của "Operation System". Tức là hệ điều hành

OSI: Là chữ viết tắt của "Open System Interconnection".

OWA: Là chữ viết tắt của "Outlock Web Access". Đây là Module của Microsoft Exchanger Server (một Server phục vụ Mail), nó cho phép người dùng truy cập và quản trị Mailbox của họ từ xa thông qua Web Browser

Ping: Là chương trình cho phép bạn xác định một host còn hoạt động (alive) hay không ? rất hữu ích cho việc chẩn đoán mạng

Port: Cổng

Packet: Gói dữ liệu

PPP :Là chữ viết tắt của "Point-to-Point". Đây là 1 giao thức kết nối Internet tin cậy thông qua Modem

POP3: Là chữ viết tắt của "Post Office Protocol Version 3". POP3 daemon thường được chạy ở cổng 110 (đây là cổng chuẩn của nó). Dùng để check mail, bạn phải kết nối đến server đang chạy POP3 daemon ở cổng 110 trong Outlook Express hoặc Outlook

Port surfing: Là kết nối đến các cổng của một máy chủ để thu thập các thông tin, chẳng hạn như thời gian, hệ điều hành, các dịch vụ đang chạy

PKC: Là chữ viết tắt của "Public key cryptos". Có nghĩa là hệ thống mật mã sử dụng từ khóa chung

PHP: Là chữ viết tắt của "PHP Hypertext Preprocessor", tạm dịch là ngôn ngữ tiền xử lý các siêu văn bản. Các mã lệnh PHP được nhúng vào các trang web, các trang này thường có phần mở rộng là .php, .php3, .php4. Khi client gởi yêu cầu "cần tải các trang này về" đến web server, đầu tiên web server sẽ phân tích và thi hành các mã lệnh PHP được nhúng trong, sau đó trả về một trang web kết quả đã được xử lí cho client. PHP là một ngôn ngữ rất dễ dùng, dễ học và cực kì đơn giản hơn nhiều so với các ngôn ngữ khác như C, Perl. PHP hiện nay rất phổ biến tuy nhiên PHP scripts chẳng an toàn chút nào, các Hacker có thể lợi dụng khe hở này để attack các servers

PUB: 1 PUB thông thường có chứa các file để cho mọi người dowload, 1 số PUB có thể cho upload. Tuy nhiên, 1 PUB có thể không chỉ chứa các file dùng cho việc download, mà có thể chứa cả 1 "trang web".

RFC: Là chữ viết tắt của "Request For Comment", là tập hợp những tài liệu về kiến nghị, đề xuất và những lời bình luận liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến công nghệ, nghi thức mạng INTERNET. Các tài liệu RFC đựợc chỉnh sửa, thay đổi đến khi tất cả các kỹ sư thành viên của IETF (Internet Engineering Task Force) đồng ý và duyệt, sau đó những tài liệu này được xuất bản và được công nhận là 1 chuẩn, nghi thức cho Internet. Tài liệu RFC nổi tiếng và làm tạo được tiếng vang lớn nhất là tài liệu RFC số 822 về Internet Email bởi Dave Crocker.

Race Conditions: là một trong những cuộc tấn công phổ biến trên các hệ thống Unix/Linux

Race Conditions xảy ra khi một chương trình hoặc quy trình xử lý nào đó thực hiện một sự kiểm tra. Giữa thời gian mà một sự kiểm tra được làm và hoạt động được thực hiện, kêt quả của cuộc kiểm tra đó có thể sẽ phản chiếu trạng thái của hệ thống. Hacker sẽ lợi dụng chương trình hoặc quy trình này trong lúc nó thực hiện đặc quyền

Remote Access: Truy cập từ xa qua mạng

Shell: Là chương trình giữa bạn và Linux (hay nói chính xác hơn là giữa bạn với nhân Linux). Mỗi lệnh bạn gõ ra sẽ được Shell diễn dịch rồi chuyển tới nhân Linux. Nói một cách dễ hiểu Shell là bộ diễn dịch ngôn ngữ lệnh, ngoài ra nó còn tận dụng triệt để các trình tiện ích và chương trình ứng dụng có trên hệ thống…

SYN: Là chữ viết tắt của "The Synchronous Idle Character" nghĩa là ký tự đồng bộ hoá. Đầu tiên, A sẽ gửi cho B yêu cầu kết nối và chờ cho B trả lời. Sau khi B nhận được yêu cầu này sẽ trả lời lại A là "đã nhận được yêu cầu từ A" (ACK) và "đề nghị trả lời lại để hoàn thành kết nối" (SYN). Đến lúc này, nếu A trả lời lại "đồng ý" (SYN) thì kết nối sẽ được tạo

SQL Injection: Là một trong những kiểu hack web đang dần trở nên phổ biến hiện nay. Bằng cách inject các mã SQL query/command vào input trước khi chuyển cho ứng dụng web xử lí, bạn có thể login mà không cần username và password, remote execution, dump data và lấy root của SQL server. Công cụ dùng để tấn công là một trình duyệt web bất kì, chẳng hạn như Internet Explorer, Netscape, Lynx

Source Code: Mã nguồn (của 1 file hay 1 chương trình nào đó)

SUID: Là chữ viết tắt của "Set User ID on execution".

SGID: Là chữ viết tắt của "Set Group ID on execution", tức là đặt thuộc tính thừa kế groupid cho một thư mục nào đó

Sniffer: Là chương trình cho phép bạn chộp tất cả các gói dữ liệu đang chuyển card mạng của máy bạn. Các dữ liệu đó có thể là tên người dùng, mật khẩu, một số thông tin quan trọng khác

SSI: Là chữ viết tắt của "Server Side Includes". Đây là các chỉ dẫn được đặt trong các file html. Server sẽ chịu trách nhiệm phân tích các chỉ dẫn này và sẽ chuyển kết quả cho client

Server: Máy chủ chứa tài liệu

Serial Direct Cable Connection: Là công nghệ kết nối máy tính bằng Cable truyền nhận dữ liệu

SMB: Là chữ viết tắt của "Server Message Block". Đây là một trong những protocols phổ biến cho PC, cho phép bạn dùng những share files, disks, directory, printers và trong vài hướng cả cổng COM

SOCKS: SOCKS được tạo ra bởi chữ SOCKetS và được phán triển chủ yếu bởI NEC, cũng như được ITEF đưa thành 1 chuấn của Internet, đựợc định nghĩ trong RFC (Request for comment).
Nhiệm vụ của SOCKS là cầu nối trung gian giữa 1 đầu của SOCKS server đến đầu kia của SOCKS server

TCP: Là viết tắt của "Transmission Control Protocol" tạm dịch là Cách thức điều khiển truyền. TCP phụ trách việc truyền và nhận dữ liệu. TCP giúp cho lớp ứng dụng (Application layer) sử dụng lớp IP (lớp IP là vì lớp Internet chỉ có IP) (Internet Protocol, tạm dịch Giao thức liên mạng) một cách trong suốt. Điều này có nghĩa là lớp ứng dụng không cần biết đến phần cứng sẽ làm việc gì, ra sao, mà chỉ cần quan tâm đến việc xử lý dữ liệu của riêng mình. TCP cũng đảm trách việc nhận đúng dữ liệu và gửi dữ liệu đó đến đúng chương trình cần nhận. TCP còn có chức năng kiểm tra và sửa lỗi thông qua việc đồng bộ hoá (synchronize) thông tin 2 đầu truyền dữ liệu và lời nhận biết (acknowledgement) từ phía nhận dữ liệu

Traceroute: Là chương trình cho phép bạn xác định được đường đi của các gói packets từ máy bạn đến hệ thống đích trên mạng Internet.

TCP/IP: Là chữ viết tắt của "Transmission Control Protocol and Internet Protocol". Gói tin TCP/IP là một khối dữ liệu đã được nén, sau đó kèm thêm một header và gửi đến một máy tính khác. Đây là cách thức truyền tin của internet, bằng cách gửi các gói tin. Phần header trong một gói tin chứa địa chỉ IP của người gửi gói tin. Bạn có thể viết lại một gói tin và làm cho nó trong giống như đến từ một người khác!!

UDP: Là chữ viết tắt của "User Datagram Protocol". Có nhiệm vụ giống như TCP, nhưng nó không đảm bảo sự chính xác của thông tin được chuyển tải. UDP chỉ đơn giản là những gói tin có điểm xuất phát và điểm đích xác định

URL: Là chữ viết tắt của "Uniform Resource Locator", dùng để chỉ tài nguyên trên Internet. Sức mạnh của web là khả năng tạo ra những liên kết siêu văn bản đến các thông tin liên quan. Những thông tin này có thì là những trang web khác, những hình ảnh, âm thanh... Những liên kết này thường được biểu diễn bầng những chữ màu xanh có gạch dưới được gọi là anchor. Các URL có thể được truy xuất thông qua một trình duyệt (Browser) như IE hay Netscape

Usestat: Tiện ích dòng lệnh này có thể hiển thị User, Full name, ngày tháng và thời gian đăng nhập cho mỗi người dùng trên mỗi doamin đã chỉ định.

Virtual Port: Virtual Port (Cổng ảo) là 1 số tự nhiên đựợc gói ở trong TCP (Tranmission Control Protocol) và UDP (User Diagram Protocol) header (hiện có lẽ bạn còn xa lạ với 2 từ này, chúng tôi sẽ đề cập sau). Như mọi người đã biết, Windows có thể chạy nhiều chương trình 1 lúc, mỗi chương trình này có 1 cổng riêng dùng để truyền và nhận dữ liệu. khi một gói tin được gửi đến làm thế nào máy tính của chúng ta phân biệt được gói tin này đi vào dịch vụ nào WebServer hay FTP server hay SMTP? Chính vì thế Port xuất hiện. Mỗi dịch vụ có 1 số port mặc định, ví dụ FTP có port mặc định là 21, web service có port mặc định là 80, POP3 là 110, SMTP là 25

Vulnerability: Là một vùng, điểm dễ bị tổn thương trong hệ thống theo một yêu cầu được phát hiện ra, một đặc điểm hay một tiêu chuẩn, hay một vùng không được bảo vệ trong toàn bộ an ninh của hệ thống mà để lại cho hệ thống các điểm dễ bị tấn công hoặc chịu ảnh hưởng các vấn đề khác. Các Hacker thường dựa vào đây để khai thác

Web spoofing: Là một dạng tấn công cho phép một người nào đó xem và chỉnh sửa mọi trang web gửi đến máy nạn nhân. Họ có thể theo dõi mọi thông tin do nạn nhân điền vào các form. Điều này đặc biệt nguy hiểm với những thông tin cá nhân như địa chỉ,số thẻ tín dụng,số tài khoản ngân hàng,mật mã truy cập vào tài khoản đó…. Web spoofing hoạt động trên cả IE lẫn NETSCAPE.Nó hoạt động dựa vào việc giao thức SSL được dùng như một dạng giấy chứng nhận cho những Website xác thực. Việc tấn công theo kiểu này có thể được thi hành bằng cách dùng Javascript và Web server plug-ins

WWW: Là chữ viết tắt của "World Wide Web"

WU-FTP: Là chữ viết tắt của "Washington University - File Transfer Protocol". Đây là một phần mềm Server phục vụ FTP được dùng khá phổ biến trên các hệt thống Unix & Linux. Chương trình này từng bị 1 lỗi khá nghiêm trọng, đó là sự thi hành của file globbing trên Server chứa tính dễ tổn thương cho phép các hacker thi hành các code lệnh trên server từ xa (tất nhiên là code có hại rồi). dẫn đến việc ghi đè các file lên servervà cuối cùng dẫn đến crash hệ thống"

*****Sưu tầm*****
Thursday, September 28, 2006, 4:36:45 PM
Cài password CMOS được xem là một trong những biện pháp khá hữu hiệu để bảo mật máy tính. Phá password CMOS là một điều hết sức khó khăn nhưng không phải là không thể làm được. Tuy nhiên để thực hiện thành công cũng đòi hỏi bạn phải có một “tay nghề” nhất định. 
Có một vài cách để phá password CMOS như: thay chip BIOS, ngắt mạch chip BIOS, sử dụng jumper, tháo pin trên mainboard, phá password CMOS bằng một số lệnh, nhập vào các password mặc định của nhà sản xuất… nhưng đối với giới tin học “bình dân học vụ” như chúng ta thì may ra có 2 phương pháp sau là tạm có thể áp dụng được.

1. Nhập vào các password chuẩn của BIOS do nhà sản xuất đã mặc định sẵn.

- Đối với loại Award BIOS thì ta có thể nhập vào các password mặc định sau để thử bẻ khóa password đã đặt trước đó: AWARD SW, AWARD_SW, Award SW, AWARD PW, _award, awkward, J64, j256, j262, j332, j322, 01322222, 589589, 589721, 595595, 598598, HLT, SER, SKY_FOX, aLLy, aLLY, Condo, CONCAT, TTPTHA, aPAf, HLT, KDD, ZBAAACA, ZAAADA, ZJAAADC, djonet.

- Đối với loại Ami BIOS thì dùng: AMI, A.M.I., AMI SW, AMI_SW, BIOS, PASSWORD, HEWITT RAND, Oder.

- Một số password dùng chung cho Ami, Award và một số BIOS khác có thể thử như: LKWPETER, lkwpeter, BIOSTAR, biostar, BIOSSTAR, biosstar, ALFAROME, Syxz, Wodj.

Nhưng thực ra phương pháp này cũng không hiệu quả lắm vì ngoài những nhãn hiệu Award, Ami… thì còn hàng chục nhãn hiệu BIOS khác mà hầu như ta không thể biết được các password mặc định là gì.

2. Phá password CMOS bằng phần mềm chuyên dùng hoặc câu lệnh ở môi trường DOS:

Nếu bạn được phép sử dụng một máy tính đang được cài password CMOS thì bạn có thể dùng một số lệnh DEBUG chạy trong môi trường DOS để phá password. Đây là những lệnh có thể làm mất hiệu lực bộ nhớ BIOS, giúp cho nó trở về trạng thái nguyên thuỷ, tức trước khi bị cài password. Nhưng thực chất việc này cũng hết sức khó khăn vì không phải lúc nào cũng có thể vào được môi trường DEBUG.

Một cách hiệu quả hơn là bạn vào địa chỉ http://www.cgsecurity.org/cmospwd-4.8.zip để tải về công cụ mang tên “Cmos Password Recovery Tools 4.8” -> Giải nén file này -> Tìm đến thư mục Windows -> Kích hoạt file cmospwd_win.exe để file này tự động xóa đi bộ nhớ BIOS hiện tại. Nếu may mắn thì lần khởi động sau sẽ không password BIOS nữa. Để “chắc ăn”, bạn nên vào thư mục “DOS” và kích hoạt file cmospwd.exe để thử lại một lần nữa.

3. Tháo hẳn cục pin mainboard để xóa hoàn toàn bộ nhớ BIOS.

Đây là thao tác tác động vào phần cứng để xóa hoàn toàn bộ nhớ BIOS được xem là hiệu quả nhất, nếu “gan” một chút thì ai cũng có thể làm được.

Ban đầu bạn phải tháo thùng máy ra -> Quan sát thật kỹ trên bản mạch máy tính để tìm ra một viên pin có đường kính cỡ như một đồng xu 200 đồng được gắn trong một ô hình tròn vừa khít với viên pin. Tìm được viên pin này thực ra cũng không khó lắm -> Quan sát kỹ và tháo viên pin ra bằng cách bấm vào cái “jumper” như hình minh họa -> Lấy pin ra và chờ khoảng 30 phút cho “chắc ăn”, tức đảm bảo cho mọi dữ liệu lưu trong BIOS sẽ “bay hơi” hết -> sau đó gắn vào đúng như hình minh họa. Khi khởi động lại máy tính thì BIOS sẽ tự động trả về mọi thứ đúng như mặc định ban đầu và dĩ nhiên password cũng sẽ biến mất.

Đảm bảo rằng đa số trường hợp tháo pin ra đều thành công còn nếu khi gắn pin vào mà password vẫn còn nguyên thì bạn lại phải tháo ra và chờ đợi thời gian “bay hơi” lâu hơn nữa, có thể là cả ngày. 
Thursday, September 28, 2006, 4:36:15 PM
Nguồn: Echip.com.vn 
Hiện tại bạn đang sử dụng WinXP_SP2 nhưng bạn muốn sử dụng thêm MS_Dos. Vậy có cách nào để Windows đưa ra hai lựa chọn: Windows XP hay DOS mỗi khi khởi động máy? Bài viết này sẽ hướng dẫn bạn một cách đơn giản để làm được điều đó.
Trước tiên, bạn chép các file khởi động của DOS là Io.sys, Msdos.sys, Command.com, Config.sys, Autoexec.bat... vào ổ cứng C. Sau đó, thêm dòng C:="DOS" vào file Boot.ini, thí dụ:

[boot loader]
timeout=2
default=multi(0)disk(0)rdisk(0)partition(2)WINDOWS
[operating systems]
multi(0)disk(0)rdisk(0)partition(2)WINDOWS="Microsoft WindowsXP" /fastdetect
C:="DOS"

Sau đó mỗi khi khởi động máy sẽ xuất hiện tùy chọn cho phép bạn khởi động bằng DOS hay WinXP.
Thursday, September 28, 2006, 4:35:44 PM
 

Trước khi cài đặt, Windows XP luôn đòi hỏi format lại đĩa cứng theo định dạng FAT32 hoặc NTFS. Sử dụng các chương trình format đời mới hiện nay nó cũng đưa ra lựa chọn giữa FAT32 và NTFS. Vậy hệ thống FAT32 và NTFS trên đĩa cứng là gì, tác dụng của nó thế nào, nên chọn loại nào cho máy tính?

Khái niệm về FAT và NTFS

FAT16: Với HĐH MS-DOS, hệ thống tập tin FAT (FAT16 – để phân biệt với FAT32) được công bố vào năm 1981 đưa ra một cách thức mới về việc tổ chức và quản lý tập tin trên đĩa cứng, đĩa mềm. Tuy nhiên, khi dung lượng đĩa cứng ngày càng tăng nhanh, FAT16 đã bộc lộ nhiều hạn chế. Với không gian địa chỉ 16 bit, FAT16 chỉ hỗ trợ đến 65.536 liên cung (clusters) trên một partition, gây ra sự lãng phí dung lượng đáng kể (đến 50% dung lượng đối với những ổ đĩa cứng trên 2 GB).

FAT32: được giới thiệu trong phiên bản Windows 95 Service Pack 2 (OSR 2), được xem là phiên bản mở rộng của FAT16. Do sử dụng không gian địa chỉ 32 bit nên FAT32 hỗ trợ nhiều cluster trên một partition hơn, do vậy không gian đĩa cứng được tận dụng nhiều hơn. Ngoài ra với khả năng hỗ trợ kích thước của phân vùng từ 2GB lên 2TB và chiều dài tối đa của tên tập tin được mở rộng đến 255 ký tự đã làm cho FAT16 nhanh chóng bị lãng quên. Tuy nhiên, nhược điểm của FAT32 là tính bảo mật và khả năng chịu lỗi (Fault Tolerance) không cao.

NTFS (New Technology File System): được giới thiệu cùng với phiên bản Windows NT đầu tiên (phiên bản này cũng hỗ trợ FAT32). Với không gian địa chỉ 64 bit, khả năng thay đổi kích thước của cluster độc lập với dung lượng đĩa cứng, NTFS hầu như đã loại trừ được những hạn chế về số cluster, kích thước tối đa của tập tin trên một phân vùng đĩa cứng.

NTFS sử dụng bảng quản lý tập tin MFT (Master File Table) thay cho bảng FAT quen thuộc nhằm tăng cường khả năng lưu trữ, tính bảo mật cho tập tin và thư mục, khả năng mã hóa dữ liệu đến từng tập tin. Ngoài ra, NTFS có khả năng chịu lỗi cao, cho phép người dùng đóng một ứng dụng “chết” (not responding) mà không làm ảnh hưởng đến những ứng dụng khác. Tuy nhiên, NTFS lại không thích hợp với những ổ đĩa có dung lượng thấp (dưới 400 MB) và không sử dụng được trên đĩa mềm.

So sánh giữa FAT32 và NTFS

NTFS là hệ thống file tiên tiến hơn rất nhiều so với FAT32. Nó có đầy đủ các đặc tính của hệ thống file hiện đại và FAT32 không hề có. Bạn nên dùng NTFS để thay thế cho FAT32 vì các lý do sau:

- FAT32 không hỗ trợ các tính năng bảo mật như phần quyền quản lý, mã hoá.. như NTFS. Vấn đề này đặc biệt hiệu quả đối với Windows. Với NTFS, bạn có thể không cần sử dụng các tiện ích mã hoá hay đặt mật khẩu giấu thư mục v.v, vì đây là đặc tính đã có sẵn của NTFS, chỉ cần bạn biết khai thác. Việc xài các tiện ích không nằm sẵn trong hệ điều hành để thao tác trực tiếp với đĩa vẫn có ít nhiều rủi ro.

- FAT32 có khả năng phục hồi và chịu lỗi rất kém so với NTFS. Có một số ý kiến cho rằng NTFS không tương thích nhiều với các chương trình kiểm tra đĩa hay sửa đĩa mà người dùng đã quen thuộc từ lâu, như vậy sẽ vô cùng bất tiên trong trường hợp đĩa bị hư sector. Nên yên tâm vì NTFS là hệ thống file có khả năng ghi lại được các hoạt động mà hệ điều hành đã và đang thao tác trên dữ liệu, nó có khả năng xác định được ngay những file bị sự cố mà không cần phải quét lại toàn bộ hệ thống file, giúp quá trình phục hồi dữ liệu trở nên tin cậy và nhanh chóng hơn. Đây là ưu điểm mà FAT 32 hoàn toàn không có.

Khi mà mất điện đột ngột thì Windows 98, 2000, XP… đều phải quét lại đĩa khi khởi động lại nếu đĩa đó được format bằng chuẩn FAT32. Trong khi format đĩa cứng bằng NTFS thì lại hoàn toàn không cần quét đĩa lại, bởi vì hệ thống dùng NTFS có được những thông tin về tính toàn vẹn dữ liệu ghi trên đĩa và nó mất rất ít thời gian để biết được về mặt logic đĩa của mình có lỗi hay không và nếu có thì hệ thống cũng tự phục hồi một cách cực kỳ đơn giản và nhanh chóng. Với FAT32 thì nó phải rà quét toàn bộ lâu hơn nhiều. Một hệ thống Windows 2000, XP sẽ ổn định hơn nhiều nếu cài trên phân vùng được format bằng NTFS. Ngoài ra NTFS còn được trang bị công cụ kiểm tra và sửa đĩa rất tốt của Microsoft.

- NTFS có khả năng truy cập và xử lý file nén ngon lành hệt như truy cập vào các file chưa nén, điều này không chỉ tiết kiệm được đĩa cứng mà còn gia tăng được tuổi thọ của đĩa cứng.

- Nhiều người phàn nàn rằng không thể truy cập vào các đĩa cứng được format bằng NTFS khi đang ở DOS, Windows 98 hoặc WinME… Thực ra thì DOS, Windows 98 và Windows ME đã quá cũ và các phần mềm còn hữu dụng của chúng cũng không còn bao nhiêu.

- NTFS đặt được quota sử dụng cho người dùng, vô cùng tiện dụng cho các hệ thống máy ở công ty. Đặc biệt tiện dụng khi “âm thầm” cấm được con cái sao chép những phim ảnh độc hại vào các thư mục “bí mật” của chúng trong đĩa cứng.

Ngoài ra, NTFS còn có rất nhiều tiện ích tuyệt chiêu chuyên sâu khác cho giới người dùng cao cấp khác như “mount partition”, tạo “hard link” tới một file, hỗ trợ dùng RAID v.v

- Nếu bạn đã thực sự quyết định chọn NTFS làm “duyên giai ngẫu” thì bạn có thể từ bỏ hẳn FAT 32 kể từ nay. Hiện có rất nhiều tiện ích chuyển đổi từ FAT 32 sang NTFS tùy bạn lựa chọn. Tiện hơn cả là dùng bộ tiện ích có sẵn trong các đĩa CD khởi động bằng Hirenboot đang rất phổ biến hiện nay.

Tuy thế, FAT32 vẫn còn tỏ ra hữu dụng trên các máy tính cấu hình quá yếu ớt, chỉ có thể chạy được Windows 98. FAT16 và FAT32 vẫn được dùng để định dạng cho các loại thẻ nhớ, vì các thiết bị chấp nhận thẻ nhớ như máy ảnh số, máy nghe nhạc vẫn chưa thấy loại nào tương thích với NTFS cả. FAT16 luôn là lựa chọn hàng đầu khi bạn muốn copy dữ liệu của mình từ một máy tính chạy Windows sang máy chạy hệ điều hành khác như Mac chẳng hạn. Hầu hết các máy Mac hiện nay đều không thể nhận dạng các thẻ nhớ USB được định dạng bằng FAT 32.
 
Today, there have been 12 visitors (165 hits) on this page!
Đến với thành phố biển Vũng Tàu This website was created for free with Own-Free-Website.com. Would you also like to have your own website?
Sign up for free